vi_ulb/02-EXO.usfm

2241 lines
204 KiB
Plaintext
Raw Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id EXO
\ide UTF-8
\h XUẤT AI CẬP
\toc1 XUẤT AI CẬP
\toc2 XUẤT AI CẬP
\toc3 exo
\mt XUẤT AI CẬP
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là tên các con trai của Y-sơ-ra-ên đã vào xứ Ai Cập cùng với Gia-cốp, mỗi người dẫn gia đình mình theo:
\v 2 Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa,
\v 3 Y-sa-ca, Sa-bu-lôn, và Ben-gia-min,
\v 4 Đan, Nép-ta-li, Gát, và A-se.
\v 5 Gia-cốp có tất cả 70 con cháu. Còn Giô-sép đã ở tại Ai Cập rồi.
\s5
\v 6 Sau đó, Giô-sép, tất cả anh em của người, và cả thế hệ đó đều qua đời.
\v 7 Dân Y-sơ-ra-ên sanh sản ra thêm, dân số đông đảo, và trở nên rất mạnh mẽ; họ sống tràn khắp xứ.
\s5
\v 8 Về sau, một vua mới lên ngôi cai trị Ai Cập, vua này không hề nhớ đến Giô-sép.
\v 9 Vua nói với thần dân: “Hãy xem dân Y-sơ-ra-ên kia; họ đông và mạnh hơn chúng ta.
\v 10 Nào, chúng ta hãy đối phó khôn ngoan với họ. Kẻo họ sẽ tiếp tục sinh sôi thêm, và nếu có chiến tranh, họ sẽ liên minh với kẻ thù của chúng ta, đánh chúng ta, và rời khỏi xứ.”
\s5
\v 11 Do vậy, người Ai Cập đặt những cai nô trên dân Y-sơ-ra-ên và đàn áp bắt họ lao động khổ sai để xây dựng các thành phố dự trữ lương thực cho Pha-ra-ôn là thành Phi-thom và Ram-se.
\v 12 Nhưng người Ai Cập càng áp bức dân Y-sơ-ra-ên nhiều chừng nào, họ lại càng sanh sản thêm hơn và sống tràn khắp xứ. Vì vậy, người Ai Cập bắt đầu khiếp sợ người Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 13 Họ bắt dân Y-sơ-ra-ên lao động cực khổ.
\v 14 Họ khiến đời sống của dân Y-sơ-ra-ên trở nên đắng cay trong việc trộn vữa để đúc gạch, cùng mọi loại hình công việc đồng áng. Tất cả công việc họ phải làm đều nặng nhọc.
\s5
\v 15 Khi ấy, vua Ai Cập ra lệnh cho các bà mụ người Hê-bơ-rơ; một người tên là Siếp-ra và người kia tên là Phu-a.
\v 16 Vua nói: “Khi các ngươi đỡ đẻ cho sản phụ Hê-bơ-rơ, hãy quan sát lúc họ sinh. Nếu đứa bé là con trai, các ngươi phải giết nó; nhưng nếu đó là con gái, hãy tha mạng nó.”
\v 17 Nhưng các bà mụ kính sợ Đức Chúa Trời và không thi hành lệnh của vua Ai Cập; trái lại, họ cứ để cho các bé trai sống.
\s5
\v 18 Vua Ai Cập triệu tập các bà mụ và hỏi: “Tại sao các ngươi để cho những đứa bé trai sống?”
\v 19 Hai bà mụ tâu với Pha-ra-ôn. “Phụ nữ Hê-bơ-rơ không như phụ nữ Ai Cập; họ khỏe mạnh và đã sinh đứa bé xong trước khi có bà mụ đến giúp.”
\s5
\v 20 Đức Chúa Trời bảo vệ các bà mụ này. Dân Y-sơ-ra-ên càng tăng lên và trở nên rất hùng cường.
\v 21 Vì các bà mụ kính sợ Đức Chúa Trời, nên Ngài cho họ có gia đình.
\v 22 Pha-ra-ôn ra lệnh cho toàn dân của ông: “Các ngươi phải ném đứa con trai nào mới sinh xuống sông, còn đứa con gái thì để lại.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Bấy giờ, một người nam trong chi phái Lê-vi cưới một người nữ Lê-vi.
\v 2 Nàng thụ thai và sanh một con trai. Thấy đó là một đứa bé trai khỏe mạnh, nàng đã giấu đứa bé trong ba tháng.
\s5
\v 3 Nhưng khi không thể giấu được nữa, nàng lấy một cái thúng cói và trét nhựa với hắc ín, sau đó đặt đứa trẻ vào thúng và thả giữa đám sậy dọc theo con sông.
\v 4 Chị của đứa bé đứng đằng xa để trông chừng.
\s5
\v 5 Công chúa của Pha-ra-ôn xuống sông để tắm trong khi các nàng hầu đi bộ dọc trên bờ sông. Công chúa thấy chiếc thúng giữa đám sậy và sai nàng hầu đến xem.
\v 6 Khi mở chiếc thúng ra, công chúa thấy đứa bé nằm trong đó, và kìa, đứa bé đang khóc. Công chúa động lòng thương đứa bé và nói: “Đây chắc hẳn là một trong những con trẻ của người Hê-bơ-rơ.”
\s5
\v 7 Sau đó, chị của đứa bé nói với con gái Pha-ra-ôn: “Em có thể đi tìm cho công chúa một người nữ Hê-bơ-rơ để nuôi đứa bé cho công chúa không?”
\v 8 Con gái Pha-ra-ôn trả lời cô gái: “Hãy đi.” Cô bé liền đi gọi mẹ đứa bé đến.
\s5
\v 9 Con gái Pha-ra-ôn bảo bà ấy: “Bà hãy đem đứa bé này về nuôi nó cho tôi, tôi sẽ trả công cho bà.” Người nữ đem đứa bé về và săn sóc.
\v 10 Khi đứa trẻ đã khôn lớn, bà dẫn đến cho con gái Pha-ra-ôn và công chúa nhận nó làm con. Nàng đặt tên đứa trẻ là Môi-se và nói: “Vì ta đã vớt nó ra khỏi nước.”
\s5
\v 11 Khi Môi-se trưởng thành, ông đến thăm đồng bào mình và trông thấy họ làm việc nặng nhọc. Ông thấy một người Ai Cập đang đánh một người Hê-bơ-rơ, một trong những đồng bào của ông.
\v 12 Ngó quanh quất, thấy không có ai gần đó, ông liền giết người Ai Cập này và vùi xác dưới cát.
\s5
\v 13 Hôm sau, ông đi ra và thấy hai người Hê-bơ-rơ đang đánh lộn. Ông hỏi người có lỗi: “Sao anh đánh bạn mình?”
\v 14 Nhưng người đó đáp: “Ai khiến ông làm lãnh đạo và đoán xét chúng tôi? Bộ ông định giết tôi như đã giết người Ai Cập kia à?” Nghe rồi Môi-se cảm thấy sợ hãi và nói rằng: “Chắc việc mình gây ra bị lộ rồi.”
\s5
\v 15 Bấy giờ khi Pha-ra-ôn biết chuyện, vua bèn tìm cách giết Môi-se. Nhưng Môi-se chạy trốn Pha-ra-ôn và ở trong xứ Ma-đi-an. Tại đó ông dừng chân bên một giếng nước.
\v 16 Bấy giờ, một thầy tế lễ ở Ma-đi-an có bảy người con gái. Họ đến giếng múc nước và đổ đầy vào máng cho bầy gia súc của cha mình uống.
\v 17 Có mấy người chăn chiên đến và đuổi họ đi, nhưng Môi-se đến bênh vực các cô gái đó và cho bầy gia súc của họ uống nước.
\s5
\v 18 Khi các cô gái chạy về gặp cha mình là Rê-u-ên, ông hỏi: “Sao hôm nay các con về nhà sớm vậy?”
\v 19 Họ đáp: “Một người Ai Cập đã cứu chúng con khỏi mấy gã chăn chiên. Ông ấy thậm chí còn kéo nước cho chúng con và cho bầy gia súc uống nữa.”
\v 20 Ông nói với các con gái mình: “Vậy người đó ở đâu? Sao các con để người ở lại? Hãy đến gọi người về dùng bữa với chúng ta.”
\s5
\v 21 Môi-se đồng ý ở lại với thầy tế lễ, người cũng gả con gái mình là Sê-phô-ra cho ông.
\v 22 Nàng sanh một con trai, và Môi-se đặt tên cho đứa bé là Ghẹt-sôn; ông nói: “Tôi là cư dân ngụ ở xứ ngoại quốc.”
\s5
\v 23 Một thời gian dài sau đó, vua Ai Cập băng hà. Dân Y-sơ-ra-ên kêu rên vì bị làm nô lệ lao động khổ sở. Họ kêu xin được giúp đỡ, và lời cầu xin của họ thấu đến Đức Chúa Trời vì cớ cảnh nô lệ của họ.
\v 24 Khi Đức Chúa Trời nghe sự kêu rên của họ, Ngài bèn nhớ lại giao ước đã lập với Áp-ra-ham, Y-sác và với Gia-cốp.
\v 25 Đức Chúa Trời thấy dân Y-sơ-ra-ên và Ngài hiểu hoàn cảnh của họ.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Bấy giờ Môi-se vẫn đang chăn bầy của cha vợ mình là Giê-trô, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an. Môi-se dẫn bầy gia súc đến phía bên kia hoang mạc và đến Hô-rếp, núi của Đức Chúa Trời.
\v 2 Tại đó, một thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với ông trong ngọn lửa ở một bụi gai. Môi-se nhìn xem, và kìa, bụi gai đang cháy nhưng không hề tàn.
\v 3 Môi-se thầm nghĩ: “Ta sẽ bước lại xem điều kì diệu này, tại sao bụi gai cháy mà không tắt.”
\s5
\v 4 Khi Đức Giê-hô-va thấy ông lại gần để xem bụi gai, Đức Chúa Trời từ bụi gai gọi ông: “Môi-se, Môi-se.” Môi-se đáp: “Có con đây.”
\v 5 Đức Chúa Trời phán: “Đừng lại gần! Hãy cởi giày ra khỏi chân ngươi, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.”
\v 6 Ngài phán tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” Khi ấy Môi-se che mặt mình lại vì ông sợ nhìn xem Đức Chúa Trời.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán: “Thật Ta đã nhìn thấy sự đau khổ của dân Ta tại Ai Cập. Ta đã nghe tiếng kêu la của họ vì những tên cai nô, vì Ta biết sự cực nhọc của họ.
\v 8 Ta đã ngự xuống để giải cứu họ khỏi quyền lực của người Ai Cập và đem họ ra khỏi đó để đến một xứ tốt đẹp, rộng lớn, một xứ đầy sữa và mật; xứ của dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-ri-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít.
\s5
\v 9 Và giờ đây tiếng kêu la của dân Y-sơ-ra-ên đã thấu đến Ta. Hơn nữa, Ta thấy sự đàn áp mà dân Ai Cập gây ra.
\v 10 Vậy, Ta sẽ sai ngươi đến gặp Pha-ra-ôn đặng ngươi đem dân Ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ai Cập.”
\s5
\v 11 Nhưng Môi-se thưa cùng Đức Chúa Trời: “Con là ai mà phải đến gặp Pha-ra-ôn và đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập?”
\v 12 Đức Chúa Trời đáp: “Chắc chắn Ta sẽ ở cùng ngươi. Đây sẽ là dấu hiệu để ngươi biết rằng Ta đã sai ngươi. Khi ngươi đã đem dân sự ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ tôn thờ Ta trên ngọn núi này.”
\s5
\v 13 Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Khi con đến gặp dân Y-sơ-ra-ên và nói, Đức Chúa Trời của tổ tiên quý vị đã sai tôi đến gặp quý vị, và nếu họ hỏi Tên của Đấng đó là gì? thì con nên trả lời họ thế nào?”
\v 14 Đức Chúa Trời trả lời Môi-se: “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU.” Đức Chúa Trời phán: “Ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, ĐẤNG ĐÓ đã sai tôi đến gặp quý vị.”
\v 15 Đức Chúa Trời phán tiếp với Môi-se: “Ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ tiên quý vị, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã sai tôi đến gặp quý vị. Đây là danh đời đời của Ta, đó là danh mà mọi thế hệ sẽ ghi nhớ.
\s5
\v 16 Hãy đi và tập hợp các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ tiên quý vị, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với tôi và phán, Thật Ta đã thấy các ngươi và nhìn thấy điều đã xảy đến với các ngươi ở Ai Cập.
\v 17 Ta đã hứa sẽ giải thoát ngươi khỏi sự đàn áp ở Ai Cập để đến xứ của dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-ri-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, một xứ đầy sữa và mặt.’”
\v 18 Họ sẽ lắng nghe ngươi. Ngươi và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên phải đến gặp vua Ai CẬp, và ngươi phải nói với vua rằng, Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ, đã hiện ra với chúng tôi. Bây giờ, hãy cho chúng tôi thực hiện chuyến đi ba ngày vào đồng vắng đặng chúng tôi có thể dâng của lễ cho Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng tôi.
\s5
\v 19 Nhưng Ta biết rằng vua Ai Cập sẽ không để các ngươi đi, nếu tay của nó không bị ép buộc.
\v 20 Ta cũng sẽ giơ tay ra và tấn công dân Ai Cập bằng đủ thứ phép lạ mà Ta sẽ thực hiện giữa họ. Sau đó, nó sẽ để các ngươi đi.
\v 21 Ta sẽ ban cho dân này được ơn trước mặt dân Ai Cập, để khi các ngươi rời đi, các ngươi sẽ không đi trắng tay.
\v 22 Mỗi người nữ sẽ xin các món nữ trang bạc và vàng cùng quần áo từ hàng xóm Ai Cập và bất cứ người nữ nào ở trong nhà hàng xóm của người đó. Các ngươi sẽ đeo những vật đó cho con trai và con gái các ngươi. Đó là cách các ngươi sẽ lột trần dân Ai Cập.”
\s5
\c 4
\p
\v 1 Môi-se trả lời: “Liệu sẽ thế nào nếu họ không tin con hoặc nghe con nhưng nói rằng, Đức Giê-hô-va không hiện ra với ông đâu?”
\v 2 Đức Giê-hô-va trả lời ông: “Trong tay ngươi có gì?” Môi-se trả lời: “Một cây gậy.”
\v 3 Đức Giê-hô-va phán: “Hãy quăng cây gậy xuống đất.” Môi-se quăng cây gậy xuống đất, và gậy biến thành một con rắn. Môi-se chạy trốn khỏi con rắn.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy giơ tay ra nắm đuôi con rắn.” Ông giơ tay ra nắm lấy con rắn, rắn lại biến thành cây gậy trong tay ông.
\v 5 “Dấu hiệu này là để họ tin rằng Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ tiên họ, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với ngươi.”
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va lại phán: “Bây giờ, hãy đặt tay vào trong áo.” Môi-se cho tay vào trong áo. Khi ông lấy tay ra, và kìa, tay bị nổi phong trắng như tuyết.
\v 7 Đức Giê-hô-va phán: “Hãy đặt tay vào trong áo ngươi lần nữa.” Môi-se để tay vào trong áo, và khi ông lấy tay ra thì thấy tay được lành như thịt mình.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán: “Nếu họ không tin ngươi nếu họ không chú ý đến dấu hiệu thứ nhất mà Ta đã thể hiện quyền năng Ta hoặc tin dấu hiệu đó, thì họ sẽ tin dấu hiệu thứ nhì.
\v 9 Và nếu thậm chí sau khi ngươi đã thực hiện hai dấu hiệu này, họ không tin hoặc lắng nghe ngươi, ngươi hãy múc nước dưới sông và đổ lên đất. Nước mà ngươi múc sẽ biến thành huyết trên mặt đất.”
\s5
\v 10 Vậy, Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va: “Thưa Chúa, con chưa bao giờ có tài ăn nói, trước kia cũng vậy hoặc kể từ khi Ngài phán với tôi tớ Ngài. Miệng lưỡi con chậm chạp và hay ấp úng.”
\v 11 Đức Giê-hô-va phán: “Ai tạo nên miệng? Ai làm câm hoặc điếc, thấy hoặc mù? Chẳng phải đó là Ta, Đức Giê-hô-va sao?
\v 12 Vậy, hãy đi, ta sẽ ở cùng miệng ngươi và dạy ngươi điều phải nói.”
\v 13 Nhưng Môi-se đáp: “Thưa Chúa, xin hãy sai người khác, bất cứ ai mà Ngài muốn sai.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va giận Môi-se. Ngài phán: “Còn A-rôn, anh ngươi, về dòng Lê-vi thì sao? Ta biết người có thể nói giỏi. Vả lại, người đang đến tìm ngươi, và người sẽ vui mừng lắm khi thấy ngươi.
\v 15 Ngươi sẽ nói với người và đặt những lời phải nói vào miệng người. Ta sẽ ở cùng với miệng ngươi và miệng người, và Ta sẽ chỉ cho hai ngươi điều phải làm.
\v 16 A-rôn sẽ thay mặt ngươi mà nói chuyện với dân chúng. Người sẽ là phát ngôn viên của ngươi, ngươi sẽ truyền đạt cho người như Ta, là Đức Chúa Trời.
\v 17 Ngươi sẽ cầm cây gậy này trong tay và thực hiện các phép lạ.”
\s5
\v 18 Vậy, Môi-se trở về gặp Giê-trô, cha vợ mình, và nói: “Xin cha cho con trở về gặp những họ hàng con, là những người đang sống ở Ai Cập, để xem họ còn sống không.” Giê-trô trả lời Môi-se: “Con hãy ra đi bình an.”
\v 19 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se ở Ma-đi-an: “Hãy đi, trở về Ai Cập, vì những người tìm giết ngươi đã chết rồi.”
\v 20 Môi-se dẫn vợ con mình trở về xứ Ai Cập bằng lừa, trong tay ông cầm cây gậy của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Khi ngươi trở về Ai Cập, hãy làm trước mặt Pha-ra-ôn tất cả những phép lạ cùng với quyền năng mà Ta ban cho ngươi. Nhưng Ta sẽ khiến vua cứng lòng, và vua ấy sẽ không để cho dân chúng ra đi.
\v 22 Ngươi phải tâu với Pha-ra-ôn: “Này là lời Đức Giê-hô-va phán: Y-sơ-ra-ên là con trai Ta, con trưởng nam Ta,
\v 23 và Ta phán với ngươi: “Hãy để con Ta ra đi, để nó có thể thờ phượng Ta.” Nhưng bởi vì ngươi không muốn để cho nó đi, nên chắc chắn Ta sẽ giết con trai ngươi, con trưởng nam của ngươi.’”
\s5
\v 24 Khi đang trên đường đi, họ dừng lại nghỉ qua đêm, Đức Giê-hô-va gặp Môi-se và định giết ông.
\v 25 Nhưng Sê-phô-ra lấy một con dao đá lửa và cắt bao quy đầu của con trai bà, rồi chạm lên chân Môi-se. Bà nói: “Bởi huyết mà anh là chàng rể của em.”
\v 26 Vậy Đức Giê-hô-va rời khỏi người. Bà nói: “Anh là chàng rể huyết” vì cớ sự cắt bì.
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán với A-rôn: “Hãy vào đồng vắng gặp Môi-se.” A-rôn ra đi, gặp em mình ở núi của Đức Chúa Trời và hôn ông.
\v 28 Môi-se kể cho A-rôn về mọi lời Đức Giê-hô-va đã sai ông nói và tất cả những phép lạ về quyền năng của Đức Giê-hô-va mà Ngài đã ra lệnh cho ông thực hiện.
\s5
\v 29 Khi ấy, Môi-se và A-rôn cùng đến gặp tất cả trưởng lão của dân Y-sơ-ra-ên.
\v 30 A-rôn nói mọi lời mà Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se. Ông cũng làm những phép lạ về quyền năng của Đức Giê-hô-va trước mặt mọi người.
\v 31 Những người đó tin. Khi họ nghe rằng Đức Giê-hô-va đã lưu tâm đến dân Y-sơ-ra-ên và Ngài đã thấy sự áp bức của họ, họ liền cúi đầu và tôn thờ Ngài.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Sau khi những sự việc này đã xảy ra, Môi-se và A-rôn đến tâu Pha-ra-ôn: “Đây là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: Hãy để dân Ta ra đi, đặng họ có thể cử hành một lễ cho Ta trong đồng vắng.’”
\v 2 Pha-ra-ôn hỏi: “Giê-hô-va là ai? Tại sao ta phải nghe lời Đấng đó mà thả dân Y-sơ-ra-ên? Ta không biết Giê-hô-va; hơn nữa, ta sẽ không cho dân Y-sơ-ra-ên đi.”
\s5
\v 3 Hai người thưa: “Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ đã gặp chúng tôi. Xin hãy để chúng tôi vào đồng vắng trong ba ngày và dâng tế lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi hầu cho Ngài không giáng dịch bệnh hay gươm giáo trên chúng tôi.”
\v 4 Nhưng vua Ai Cập trả lời họ: “Hỡi Môi-se và A-rôn, sao hai ngươi xui cho dân chúng không làm việc? Hãy trở về làm việc của các ngươi đi.”
\v 5 Vua nói tiếp: “Bây giờ dân số Hê-bơ-rơ trong xứ chúng ta đã nhiều rồi, và các ngươi lại xúi họ không làm việc.”
\s5
\v 6 Cũng trong ngày đó, Pha-ra-ôn ra lệnh cho các cai nô và đốc công của họ,
\v 7 “Các ngươi không được cấp rơm cho dân này để làm gạch như trước kia nữa. Hãy để chúng tự đi kiếm rơm.
\v 8 Tuy nhiên, các ngươi vẫn phải bắt chúng sản xuất cùng một số lượng gạch như trước đó. Đừng để chúng làm ít hơn, vì chúng lười biếng. Vì vậy nên chúng kêu la, Xin cho phép chúng tôi đi dâng của lễ cho Đức Chúa Trời chúng tôi.
\v 9 Hãy giao thêm việc nặng nhọc để chúng tập trung làm và không nghe theo những lời dối trá nữa.”
\s5
\v 10 Vậy, các cai nô và đốc công đến và thông báo rằng: “Này là lời Pha-ra-ôn truyền: Ta sẽ không cấp cho các ngươi rơm nữa.
\v 11 Chính các ngươi phải tự đi tìm rơm ở bất cứ nơi nào mà các ngươi có thể tìm thấy, nhưng công việc của các ngươi sẽ không được giảm.’”
\s5
\v 12 Vậy, dân chúng tản ra khắp xứ Ai Cập để gom các gốc rạ làm rơm.
\v 13 Các cai nô cứ thúc giục họ: “Hãy làm xong việc của các ngươi y như lúc các ngươi đã nhận rơm.”
\v 14 Cai nô của Pha-ra-ôn đánh đập các đốc công người Y-sơ-ra-ên, là những người mà họ đã giao nhiệm vụ quản lý nhân công. Các cai nô cứ hỏi họ: “Sao hôm qua và hôm nay các ngươi không sản xuất lượng gạch theo yêu cầu như trước kia?”
\s5
\v 15 Vậy, các đốc công người Y-sơ-ra-ên đến gặp Pha-ra-ôn và kêu van vua: “Sao vua đối xử với tôi tớ của vua như vầy?
\v 16 Chúng tôi không còn được cấp rơm nữa, nhưng họ vẫn cứ bảo chúng tôi, Hãy làm gạch đi! Giờ đây, chúng tôi, tôi tớ của vua, thậm chí còn bị đánh đập, nhưng đó là lỗi từ phía người của vua.”
\v 17 Nhưng Pha-ra-ôn đáp: “Các ngươi làm biếng! Các ngươi làm biếng! Các ngươi nói rằng, Xin cho chúng tôi ra đi để dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va.
\v 18 Vậy bây giờ hãy trở lại với công việc của các ngươi. Các ngươi sẽ không được cấp rơm nữa, nhưng các ngươi vẫn phải làm đủ số gạch như trước.”
\s5
\v 19 Các đốc công Y-sơ-ra-ên thấy bối rối khi nghe vua nói: “Các ngươi không được giảm số gạch hàng ngày.”
\v 20 Sau khi đã yết kiến vua, họ đến gặp Môi-se và A-rôn, hai ông đang đứng ngoài cung điện.
\v 21 Họ nói với Môi-se và A-rôn: “Nguyện xin Đức Giê-hô-va đoái đến các ông và trừng phạt các ông, vì các ông đã khiến chúng tôi trở nên gớm ghiếc trước mặt Pha-ra-ôn và các tôi tớ vua. Các ông đã trao gươm cho họ đặng giết chúng tôi.”
\s5
\v 22 Môi-se trở về gặp Đức Giê-hô-va và thưa: “Lạy Chúa, sao Ngài khiến dân này gặp rắc rối? Sao Chúa lại sai con đến đây?
\v 23 Kể từ khi con gặp Pha-ra-ôn để nhân danh Ngài mà tâu với vua, thì vua đã gây khó khăn cho dân này, và Ngài thì chẳng giải thoát họ.”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Bây giờ ngươi sẽ thấy việc Ta làm đối với Pha-ra-ôn. Ngươi sẽ thấy điều này, vì tay quyền năng của Ta, vua sẽ để cho họ ra đi. Vì tay quyền năng của Ta, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi xứ.”
\s5
\v 2 Đức Chúa Trời phán với Môi-se: “Ta là Giê-hô-va.
\v 3 Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp với tư cách là Đức Chúa Trời Toàn năng; nhưng danh Ta, Đức Giê-hô-va, thì họ không biết.
\v 4 Ta cũng đã lập giao ước Ta với họ, đặng ban cho họ xứ Ca-na-an, là xứ mà họ đã cư ngụ như dân ngoại, một nơi đất khách quê người.
\v 5 Hơn nữa, Ta đã nghe tiếng kêu rên của dân Y-sơ-ra-ên mà người Ai Cập đã bắt làm nô lệ, và Ta đã nhớ lại giao ước của Ta.
\s5
\v 6 Vậy, hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, Ta là Đức Giê-hô-va. Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, và Ta sẽ giải cứu các ngươi khỏi quyền lực họ. Ta sẽ giải cứu các ngươi bằng quyền năng của Ta, và bằng sự đoán phạt to lớn.
\v 7 Ta sẽ xem các ngươi là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi. Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đã đem ngươi ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập.
\s5
\v 8 Ta sẽ đem các ngươi vào xứ mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Ta sẽ ban xứ đó cho các ngươi làm tài sản. Ta là Đức Giê-hô-va.’”
\v 9 Khi Môi-se thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên về điều này, họ không chịu nghe ông vì nản lòng về ách nô lệ nặng nề.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se
\v 11 “Hãy đến nói Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, để cho dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi xứ.”
\v 12 Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va: “Nếu người Y-sơ-ra-ên đã không nghe con, thì tại sao Pha-ra-ôn phải nghe con, vì con không có tài ăn nói?”
\v 13 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se và A-rôn, truyền lệnh cho họ phải đi đến dân Y-sơ-ra-ên và gặp Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, để đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.
\s5
\v 14 Đây là những trưởng tộc trong dòng dõi họ: Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. Đó là những thị tộc của Ru-bên.
\v 15 Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ - con của một người nữ xứ Ca-na-an. Đó là các thị tộc của Si-mê-ôn.
\s5
\v 16 Đây là tên các con trai của Lê-vi, tùy theo con cháu họ. Đó là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. Lê-vi hưởng thọ được 137 tuổi.
\v 17 Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-y.
\v 18 Các con trai của Kê-hát là: Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. Kê-hát hưởng thọ được 133 tuổi.
\v 19 Các con trai của Mê-ra-ri là: Mách-li, và Mu-si. Đó là các họ hàng của Lê-vi, tùy theo dòng dõi họ.
\s5
\v 20 Am-ram cưới Giô-kê-bết, em gái của cha mình. Nàng sanh cho ông A-rôn và Môi-se. Am-ram hưởng thọ 137 tuổi.
\v 21 Các con trai Dít-sê-ha là: Cô-rê, Nê-phết và Xiếc-ri.
\v 22 Các con trai của U-xi-ên là: Mi-sa-ên, En-sa-phan và Sít-ri.
\s5
\v 23 A-rôn cưới Ê-li-sê-ba, con gái A-mi-na-đáp, em của Na-ha-sôn. Các con trai của họ là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
\v 24 Các con trai của Cô-rê là A-si, Ên-ca-na, và A-bi-a-sáp. Đó là các thị tộc của dân Cô-rê.
\v 25 Ê-lê-a-sa, con trai của A-rôn, cưới một trong các con gái của Phu-ti-ên. Con trai của họ là Phi-nê-a. Đây là các trưởng tộc của người Lê-vi, tùy theo con cháu họ.
\s5
\v 26 A-rôn và Môi-se là hai người mà Đức Giê-hô-va đã phán: “Hãy đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập, theo binh ngũ.”
\v 27 A-rôn và Môi-se tâu với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, xin vua để dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập. Đấy là Môi-se và A-rôn.
\s5
\v 28 Khi Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trong xứ Ai Cập,
\v 29 Ngài phán: “Ta là Giê-hô-va. Hãy tâu với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, về mọi điều mà Ta sẽ bảo ngươi.”
\v 30 Nhưng Môi-se đáp cùng Đức Giê-hô-va: “Con không có tài ăn nói, vậy làm sao Pha-ra-ôn nghe con được?”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Này, Ta sẽ khiến ngươi như một vị thần trước mặt Pha-ra-ôn. A-rôn, anh ngươi, sẽ là tiên tri của ngươi.
\v 2 Ngươi sẽ nói mọi điều mà Ta truyền cho ngươi phải nói. Còn A-rôn, anh ngươi, sẽ tâu với Pha-ra-ôn để nó thả dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ.
\s5
\v 3 Nhưng Ta sẽ để cho Pha-ra-ôn cứng lòng, và dùng quyền năng Ta làm nhiều phép lạ, dấu kỳ, trong xứ Ai Cập.
\v 4 Tuy nhiên, Pha-ra-ôn sẽ không nghe ngươi đâu, vậy nên Ta sẽ giáng tay Ta trên Ai Cập và đem những đội quân của Ta, là dân Ta, là con cháu Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ai Cập bằng những cơn đoán phạt nặng nề.
\v 5 Dân Ai Cập sẽ biết Ta là Giê-hô-va khi Ta giơ tay ra trên Ai Cập và đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ của chúng.”
\s5
\v 6 Môi-se và A-rôn làm theo y như vậy; họ làm đúng như Đức Giê-hô-va đã truyền lệnh.
\v 7 Môi-se được 80 tuổi, còn A-rôn được 83 tuổi khi họ đến diện kiến Pha-ra-ôn.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se và A-rôn,
\v 9 “Khi Pha-ra-ôn bảo ngươi, Hãy làm phép lạ đi! thì ngươi hãy nói với A-rôn, Lấy cây gậy trong tay anh và quăng xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn để nó biến thành rắn.’”
\v 10 Vậy Môi-se và A-rôn đến gặp Pha-ra-ôn, và họ làm theo đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền. A-rôn quăng cây gậy xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn và các quần thần, gậy liền biến thành con rắn.
\s5
\v 11 Khi ấy, Pha-ra-ôn cũng triệu tập các pháp sư và phù thủy đến. Họ dùng pháp thuật mình mà làm điều tương tự.
\v 12 Mỗi người đều ném gậy mình xuống đất, và các cây gậy đều hóa thành rắn. Nhưng gậy của A-rôn nuốt hết các con rắn của họ.
\v 13 Lòng Pha-ra-ôn trở nên cứng cỏi, vua không chịu nghe, y như Đức Giê-hô-va đã nói trước.
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Pha-ra-ôn thật cứng lòng, nó từ chối không để cho dân sự ra đi.
\v 15 Các ngươi hãy đến gặp Pha-ra-ôn vào sáng sớm khi nó đi ra sông. Hãy gặp nó trên bờ sông, và dùng cây gậy trong tay ngươi là gậy đã biến thành rắn.
\s5
\v 16 Hãy tâu với nó, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ, đã sai tôi đến gặp vua để nói: “Hãy để dân Ta ra đi, để chúng có thể thờ phượng Ta trong đồng vắng. Đến giờ thì vua vẫn từ chối.”
\v 17 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Bởi điều này, ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va. Tôi sẽ dùng gậy đập vào nước sông Nin, và sông sẽ hóa thành huyết.
\v 18 Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ có mùi hôi tanh. Người Ai Cập sẽ không thể uống nước sông.””
\s5
\v 19 Sau đó Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se: “Hãy nói với A-rôn, Hãy lấy gậy của anh và giơ ra trên các mặt nước của Ai Cập, và trên sông ngòi của xứ, suối, ao, cùng các vũng nước của xứ, để nước hóa thành huyết. Hãy làm phép lạ này để khắp nơi trong xứ Ai Cập sẽ toàn là huyết, thậm chí là huyết trong các thùng gỗ hay là vại đá.’”
\s5
\v 20 Môi-se và A-rôn thực hiện theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền. A-rôn giơ gậy lên và đập xuống nước sông, trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. Toàn bộ nước sông đều biến thành huyết.
\v 21 Cá dưới sông chết hết, và sông bắt đầu có mùi tanh. Người Ai Cập không thể uống nước sông, và khắp trong xứ Ai Cập đều có huyết.
\v 22 Nhưng các thuật sĩ Ai Cập cũng dùng pháp thuật họ mà làm điều tương tự. Do đó, Pha-ra-ôn vẫn ương ngạnh và từ chối nghe theo Môi-se và A-rôn, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán sẽ xảy đến.
\s5
\v 23 Sau đó, Pha-ra-ôn quay về cung điện. Ông thậm chí còn không ngó ngàng gì đến việc này.
\v 24 Tất cả người Ai Cập đào giếng dọc theo sông để tìm nước uống, nhưng họ không thể uống nước sông.
\v 25 Bảy ngày đã trôi qua sau khi Đức Giê-hô-va giáng họa trên sông.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hãy đến gặp Pha-ra-ôn và bảo, Đức Giê-hô-va có phán như vầy: “Hãy để dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 2 Nếu ngươi từ chối không cho chúng đi, Ta sẽ khiến ếch nhái tràn đầy trong xứ ngươi.
\v 3 Sông ngòi sẽ lúc nhúc ếch nhái. Chúng sẽ lên bờ và vào trong cung ngươi, phòng ngủ ngươi, và trên giường ngươi. Chúng sẽ vào nhà các quần thần ngươi và dân chúng ngươi, nhảy vào lò và vào các chậu nướng bánh của ngươi.
\v 4 Ếch nhái sẽ tấn công ngươi, người dân và tất cả quần thần ngươi.””
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se: “Hãy nói với A-rôn, Anh hãy giơ gậy ra trên sông, suối, ao hồ, khiến cho ếch nhái ngoi lên khắp xứ Ai Cập.’”
\v 6 A-rôn giơ tay ra trên những nơi có nước ở Ai Cập, khiến ếch nhái nhảy lên bờ và tràn khắp xứ Ai Cập.
\v 7 Nhưng các thuật sĩ cũng làm y vậy bằng pháp thuật họ: họ khiến ếch nhái tràn khắp xứ Ai Cập.
\s5
\v 8 Sau đó, Pha-ra-ôn triệu tập Môi-se và A-rôn và nói: “Hai ngươi hãy cầu nguyện xin Giê-hô-va xua ếch nhái ra khỏi ta và dân chúng. Ta sẽ để cho họ ra đi đặng dâng của lễ cho Ngài.”
\v 9 Môi-se tâu với Pha-ra-ôn: “Xin vua cho biết khi nào tôi nên cầu nguyện cho vua, các quần thần, và thần dân của vua, để ếch nhái biến khỏi vua và cung điện vua và sẽ chỉ ở dưới sông.”
\s5
\v 10 Pha-ra-ôn đáp: “Ngày mai.” Môi-se thưa: “Sẽ y theo điều vua nói, đặng vua biết rằng chẳng có đấng nào như Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng tôi.
\v 11 Ếch nhái sẽ lui khỏi vua, gia đình vua, quần thần vua, và thần dân của vua. Chúng sẽ chỉ ở dưới sông.”
\v 12 Môi-se và A-rôn rời khỏi Pha-ra-ôn. Sau đó, Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va về nạn ếch nhái mà Ngài đã giáng trên Pha-ra-ôn.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va làm y như lời Môi-se cầu xin: ếch nhái chết trong nhà, ngoài sân, và ngoài đồng.
\v 14 Người ta gom chúng lại thành từng đống, và cả xứ đầy mùi hôi tanh.
\v 15 Nhưng khi Pha-ra-ôn nhận thấy tai nạn đã qua, ông cứng lòng, không nghe lời Môi-se và A-rôn, y như Đức Giê-hô-va đã báo trước.
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se: “Hãy nói với A-rôn, Anh hãy giơ gậy ra và đập vào bụi đất, để bụi bay lên biến thành muỗi khắp xứ Ai Cập.’”
\v 17 Họ làm như vậy: A-rôn giơ gậy và tay mình ra. Ông đập vào bụi đất, muỗi bèn bu vào người và súc vật. Bụi đất đều hóa thành muỗi bay khắp xứ Ai Cập.
\s5
\v 18 Các thuật sĩ cố dùng pháp thuật mà làm ra muỗi, nhưng đều thất bại. Muỗi bu vào người và súc vật.
\v 19 Khi ấy, các thuật sĩ tâu với Pha-ra-ôn: “Đây đúng là ngón tay của Đức Chúa Trời.” Nhưng lòng Pha-ra-ôn cứng cỏi, vì vậy ông không nghe họ. Việc này xảy ra y theo lời Đức Giê-hô-va đã phán rằng Pha-ra-ôn sẽ không chịu nghe.
\s5
\v 20 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Sáng hôm sau ngươi hãy dậy sớm và đến gặp Pha-ra-ôn khi nó đi ra sông. Ngươi hãy nói với hắn, Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy để cho dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 21 Bằng không, Ta sẽ giáng ruồi nhặng trên ngươi, quần thần ngươi, và dân ngươi, và chúng sẽ tràn vào trong cung điện ngươi. Nhà của dân Ai Cập sẽ đầy ruồi nhặng, và thậm chí trên mặt đất cũng đầy ruồi.
\s5
\v 22 Nhưng trong ngày đó, Ta sẽ đối xử khác trên xứ Gô-sen, là xứ mà dân Ta đang sống, xứ đó sẽ không có ruồi nhặng. Việc này sẽ xảy ra đặng ngươi biết Ta là Giê-hô-va giữa xứ này.
\v 23 Ta sẽ phân biệt giữa dân Ta và dân ngươi. Phép lạ này sẽ xảy đến vào ngày mai.””
\v 24 Đức Giê-hô-va làm y như vậy, hàng bầy ruồi nhặng dày đặc bay vào cung điện Pha-ra-ôn và nhà của các quần thần. Khắp trong xứ Ai Cập đều bị điêu tàn vì cớ những đám ruồi đó.
\s5
\v 25 Pha-ra-ôn gọi Môi-se và A-rôn đến và nói: “Hãy đi đi, hãy dâng của tế lễ cho Đức Chúa Trời các ngươi trong xứ của chúng ta.”
\v 26 Môi-se đáp: “Chúng tôi làm vậy là không đúng, vì của tế lễ chúng tôi dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi là thứ mà dân Ai Cập ghê tởm. Nếu chúng tôi dâng của tế lễ trước mặt người Ai Cập là những thứ mà họ gớm ghiếc, thì liệu họ sẽ không ném đá chúng tôi chứ?
\v 27 Không, chúng tôi phải đi ba ngày vào đồng vắng, đặng dâng của lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, y theo lời Ngài truyền cho chúng tôi.”
\s5
\v 28 Pha-ra-ôn đáp: “Ta sẽ cho phép các ngươi đi và dâng của lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi trong đồng vắng, miễn là các ngươi không được phép đi quá xa. Và hãy cầu nguyện cho ta.”
\v 29 Môi-se đáp: “Khi tôi rời khỏi vua, tôi sẽ cầu nguyện xin Đức Giê-hô-va khiến cho đám ruồi nhặng rời khỏi vua, thưa vua Pha-ra-ôn, và rời khỏi các quần thần và thần dân của vua vào ngày mai. Nhưng vua không được lừa gạt nữa bằng cách không cho chúng tôi đi dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 30 Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn và cầu nguyện với Đức Giê-hô-va.
\v 31 Đức Giê-hô-va đáp lời Môi-se cầu xin: Ngài khiến đám ruồi nhặng bay khỏi Pha-ra-ôn, các quần thần, và dân của vua. Không ai còn bị ruồi nhặng bu vào nữa.
\v 32 Nhưng lần này Pha-ra-ôn cũng ương bướng, và vua không để cho dân chúng ra đi.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Hãy đến gặp Pha-ra-ôn và tâu rằng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: “Hãy để dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.”
\v 2 Còn nếu vua từ chối cho họ đi, nếu vua giữ họ lại,
\v 3 thì tay của Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên gia súc của vua ở ngoài đồng và trên ngựa, lừa, lạc đà, đàn bò, và các đàn chiên, khiến chúng bị bệnh và chết.
\v 4 Đức Giê-hô-va sẽ phân biệt giữa gia súc của người Y-sơ-ra-ên và gia súc của người Ai Cập: sẽ không có con vật nào của người Y-sơ-ra-ên chết cả.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va đã ra một hạn định; Ngài phán: “Ngày mai, Ta sẽ giáng điều này trên xứ.””
\v 6 Hôm sau, Đức Giê-hô-va giáng tai họa này: tất cả gia súc ở Ai Cập đều chết. Nhưng không có con vật nào của người Y-sơ-ra-ên chết, một con cũng không.
\v 7 Pha-ra-ôn ra lệnh điều tra, và kìa, không có một con vật nào của người Y-sơ-ra-ên bị chết. Tuy nhiên, vua ương ngạnh và không để cho dân sự ra đi.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn: “Hãy lấy vài nắm tro từ lò. Môi-se phải tung tro ấy vào không trung trước mặt Pha-ra-ôn.
\v 9 Tro sẽ biến thành bụi bay khắp xứ Ai Cập. Chúng sẽ khiến người dân và súc vật trên cả nước Ai Cập bị rộp và nổi loét.”
\v 10 Môi-se và A-rôn bèn lấy tro từ trong lò và đứng trước mặt Pha-ra-ôn. Sau đó Môi-se tung tro lên cao. Tro khiến người dân và súc vật trên bị rộp và nổi loét.
\s5
\v 11 Các thuật sĩ không thể chống lại Môi-se vì những vết rộp; vì họ và tất cả những người Ai Cập khác đều bị rộp.
\v 12 Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, vì vậy Pha-ra-ôn không nghe lời Môi-se và A-rôn. Việc này y theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán với Môi-se rằng Pha-ra-ôn sẽ ương ngạnh.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Sáng hôm sau, ngươi hãy dậy sớm, đứng chầu trước mặt Pha-ra-ôn, và thưa rằng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: “Hãy để dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 14 Vì lần này, Ta sẽ giáng mọi tai ương trên chính ngươi, quần thần, và thần dân ngươi. Ta sẽ làm việc này để ngươi biết rằng chẳng có ai như Ta trên thế gian.
\s5
\v 15 Ngay bây giờ, Ta có thể giơ tay Ta ra và giáng bệnh tật trên ngươi và dân tộc ngươi, và ngươi sẽ bị nhổ khỏi xứ.
\v 16 Nhưng đây là lý do Ta để cho ngươi sống: đặng tỏ cho ngươi thấy sức mạnh Ta, hầu cho danh Ta được công bố khắp nơi trên đất.
\v 17 Ngươi vẫn chống lại dân Ta và không để chúng ra đi.
\s5
\v 18 Hãy nghe đây! Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ giáng một trận mưa đá rất lớn chưa từng thấy ở Ai Cập từ ngày lập quốc cho đến nay.
\v 19 Vậy bây giờ, hãy sai người đi gom gia súc của ngươi và mọi thứ ngươi có ngoài đồng đến một nơi an toàn. Nếu người nào và súc vật còn ở ngoài đồng mà chưa được đưa về nhà mưa đá sẽ rơi trên họ, và họ sẽ chết.””
\s5
\v 20 Lúc đó, quần thần của Pha-ra-ôn, là những người tin lời phán của Đức Giê-hô-va liền nhanh chóng đem nô lệ và gia súc của họ vào nhà.
\v 21 Nhưng những người xem nhẹ lời phán của Đức Giê-hô-va thì vẫn để nô lệ và gia súc của họ ở lại ngoài đồng.
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Hãy giơ tay ngươi lên trời để mưa đá giáng xuống khắp xứ Ai Cập, dân chúng, thú vật, và mọi loài thực vật ngoài đồng trên khắp nước Ai Cập.”
\v 23 Môi-se giơ gậy lên trời, và Đức Giê-hô-va khiến cho nổi sấm chớp, mưa đá, và sét đánh xuống đất. Ngài cũng khiến mưa đá rơi trên đất Ai Cập.
\v 24 Vậy nên có mưa đá và sấm chớp lóe lên giữa lúc trời đang mưa đá rất nặng nề chưa từ có trên khắp xứ Ai Cập kể từ thời lập quốc.
\s5
\v 25 Mưa đá tàn phá mọi thứ ngoài đồng, trên cả con người và súc vật trong khắp xứ Ai Cập. Mưa đá phá hủy hoa màu ngoài đồng và làm gãy mọi cây cối.
\v 26 Duy trong xứ Gô-sen, nơi dân Y-sơ-ra-ên sinh sống, không có mưa đá.
\s5
\v 27 Pha-ra-ôn bèn sai người triệu tập Môi-se và A-rôn. Ông nói: “Lần này ta đã phạm tội. Giê-hô-va là Đấng công bình, còn ta và dân tộc ta thì tệ hại.
\v 28 Ngươi hãy cầu nguyện với Giê-hô-va, vì sấm sét và mưa đá thật quá kinh hãi. Ta sẽ để các ngươi đi, các ngươi sẽ không ở lại đây nữa.”
\s5
\v 29 Môi-se tâu rằng: “Ngay khi tôi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay hướng về Đức Giê-hô-va. Sấm sét sẽ dừng, và sẽ không còn mưa đá nữa. Bởi đó vua sẽ biết rằng thế gian thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 30 Nhưng đối với vua và quần thần của vua, tôi biết là vua vẫn không thật sự tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 31 Bấy giờ, cây lanh và lúa mạch bị tàn phá, vì lúa mạch đã trổ bông, còn cây lanh đã có nụ.
\v 32 Nhưng lúa mì và lúa miến không bị thiệt hại vì các cây này cho ra vụ mùa chậm hơn.
\v 33 Khi Môi-se đã rời khỏi Pha-ra-ôn và thành phố, ông giơ tay lên cao hướng về Đức Giê-hô-va; sấm chớp và mưa đá liền dừng, trời không còn mưa nữa.
\s5
\v 34 Khi Pha-ra-ôn thấy rằng mưa, mưa đá, và sấm sét đã dừng, ông và các quần thần lại phạm tội và ngang bướng.
\v 35 Lòng Pha-ra-ôn cứng cỏi, bởi đó ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Đây là cách mà Đức Giê-hô-va đã phán với Môi-se rằng Pha-ra-ôn sẽ làm như vậy.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy đến gặp Pha-ra-ôn, vì Ta đã làm cứng lòng nó cùng các tôi tớ của nó. Ta làm vậy là để chứng minh những phép lạ về quyền năng Ta ở giữa chúng.
\v 2 Ta cũng làm vậy là để ngươi có thể kể cho con cháu ngươi về những việc mà Ta đã làm, cách Ta đối đãi nước Ai Cập khắc nghiệt ra sao, và cách Ta đã thể hiện các phép lạ khác nhau về quyền năng Ta giữa chúng. Bởi đó, ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 3 Môi-se và A-rôn bèn đến gặp Pha-ra-ôn và tâu: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ phán rằng: Ngươi sẽ còn không chịu hạ mình trước mặt Ta bao lâu nữa? Hãy để cho dân Ta ra đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 4 Còn nếu ngươi không để cho chúng đi, hãy nghe đây, ngày mai Ta sẽ giáng họa châu chấu trên xứ ngươi.
\s5
\v 5 Chúng sẽ phủ kín khắp đất đến nỗi không ai có thể nhìn thấy mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn những gì còn sót lại sau trận mưa đá. Chúng cũng sẽ ăn mọi loài thực vật các ngươi trồng ở ngoài đồng.
\v 6 Chúng sẽ bay đầy trong cung điện ngươi, trong nhà của quần thần ngươi, và trong nhà của mọi dân Ai Cập đây là một tai họa mà tổ cha ngươi hoặc tổ tiên ngươi chưa từng thấy kể từ thời họ được sinh ra trên đất cho đến nay.’” Vậy, Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn.
\s5
\v 7 Các quần thần của Pha-ra-ôn tâu với vua: “Người này sẽ là mối đe dọa đối với chúng ta trong bao lâu nữa? Xin vua hãy để cho người Y-sơ-ra-ên ra đi đặng họ tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Vua vẫn chưa thấy rằng Ai Cập đã bị hủy diệt sao?”
\v 8 Pha-ra-ôn lại triệu tập Môi-se và A-rôn đến và nói rằng: “Hãy đi thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi. Nhưng những người nào sẽ đi?”
\s5
\v 9 Môi-se tâu: “Chúng tôi sẽ đi cùng người trẻ và người già, con trai và con gái chúng tôi. Chúng tôi sẽ đi cùng các bầy đàn gia súc của mình, vì chúng tôi phải làm một lễ cho Đức Giê-hô-va.”
\v 10 Pha-ra-ôn đáp: “Cầu xin Giê-hô-va ở cùng các ngươi, vì ta không để cho ngươi và các con nhỏ của ngươi đi đâu. Kìa, ngươi đang có suy nghĩ đen tối.
\v 11 Không! Hãy đi đi, chỉ những người nam ở giữa ngươi được đi, và hãy thờ phượng Giê-hô-va, vì đó là điều các ngươi muốn.” Sau đó, Môi-se và A-rôn bị đuổi khỏi Pha-ra-ôn.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Hãy giơ tay ngươi ra trên đám châu chấu ở xứ Ai Cập để chúng tấn công xứ và ăn mọi hoa màu của xứ, là những thứ còn sót lại sau trận mưa đá.”
\v 13 Môi-se giơ gậy ra trên xứ Ai Cập, và Đức Giê-hô-va khiến nổi lên một cơn gió đông thổi trên khắp xứ cả ngày và đêm. Vào buổi sáng, gió đông đã thổi châu chấu vào xứ.
\s5
\v 14 Châu chấu bay tràn khắp xứ Ai Cập và phá hoại mọi miền. Châu chấu đông đến nỗi trước đó chưa từng có và sau này cũng không bao giờ có như vậy.
\v 15 Chúng bao phủ khắp đất đến nỗi đất tối đen. Chúng ăn mọi hoa màu trong xứ cùng mọi hoa quả trên cây còn sót lại sau trận mưa đá.
\s5
\v 16 Khi ấy, Pha-ra-ôn nhanh chóng triệu tập Môi-se và A-rôn và nói: “Ta đã phạm tội chống lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi và chống lại các ngươi.
\v 17 Vậy bây giờ, hãy tha thứ cho ta lần này, và cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi cất sự chết này khỏi ta.”
\v 18 Môi-se bèn rời khỏi Pha-ra-ôn và cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va khiến nổi lên một trận gió tây rất mạnh cuốn đi bầy châu chấu và thổi xuống Biển Đỏ; đến nỗi không còn sót lại con châu chấu nào trên khắp lãnh thổ Ai Cập.
\v 20 Nhưng Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, và ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên đi.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hãy giơ tay ngươi lên trời, hầu cho bóng tối bao trùm khắp xứ Ai Cập, bóng tối đó có thể cảm nhận được.”
\v 22 Môi-se giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao phủ khắp xứ Ai Cập trong ba ngày.
\v 23 Không ai có thể nhìn thấy nhau; không ai rời khỏi nhà mình trong ba ngày. Tuy nhiên, ở nơi người Y-sơ-ra-ên sống thì tràn đầy ánh sáng.
\s5
\v 24 Pha-ra-ôn triệu tập Môi-se và A-rôn và nói: “Hãy đi thờ phượng Giê-hô-va. Các ngươi có thể dẫn theo gia đình các ngươi, nhưng bầy đàn gia súc thì phải để lại.”
\v 25 Tuy vậy, Môi-se tâu: “Vua cũng phải cho chúng tôi súc vật để làm của tế lễ và làm của lễ thiêu dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi.
\v 26 Gia súc cũng sẽ đi cùng chúng tôi; không một móng nào bị bỏ lại, vì chúng tôi phải dùng chúng để thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi. Vì chúng tôi không biết mình phải dùng gì để thờ phượng Đức Giê-hô-va cho đến khi chúng tôi tới đó.”
\s5
\v 27 Nhưng Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, và ông không để cho dân sự ra đi.
\v 28 Pha-ra-ôn nói cùng Môi-se “Hãy rời khỏi ta! Hãy cẩn thận một điều, đừng gặp ta nữa, vì một mai ngươi gặp mặt ta, ngươi sẽ chết.”
\v 29 Môi-se đáp: “Xin theo như lời vua đã nói. Tôi sẽ không diện kiến vua nữa.”
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Vẫn còn một tai họa nữa mà Ta sẽ giáng trên Pha-ra-ôn và Ai Cập. Sau đó, nó sẽ để các ngươi rời khỏi đây. Cuối cùng, khi nó để các ngươi đi, nó sẽ đuổi các ngươi hoàn toàn.
\v 2 Hãy bảo dân sự rằng mỗi người nam và mỗi người nữ phải xin láng giềng mình những vật bằng bạc và bằng vàng.”
\v 3 Bấy giờ Đức Giê-hô-va khiến người Ai Cập tự nguyện đáp ứng yêu cầu của người Y-sơ-ra-ên. Hơn nữa, chính Môi-se rất được ấn tượng trước các quần thần của Pha-ra-ôn và người dân xứ Ai Cập.
\s5
\v 4 Môi-se nói: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Vào khoảng nửa đêm, Ta sẽ đi khắp Ai Cập.
\v 5 Tất cả con đầu lòng trong xứ Ai Cập sẽ chết, từ con đầu lòng của Pha-ra-ôn, là đứa ngồi trên ngai, cho đến con đầu lòng của nữ nô lệ đang ngồi sau cối xay, và cho đến con đầu lòng của các bầy gia súc.
\s5
\v 6 Khi đó sẽ có tiếng than khóc lớn trên khắp xứ Ai Cập, đến nỗi trước giờ chưa từng có hoặc sau này cũng vậy.
\v 7 Nhưng trong cả dân Y-sơ-ra-ên dầu đến một con chó cũng sẽ chẳng sủa hoặc người, hoặc vật. Bởi đó, ngươi sẽ biết rằng Ta đối xử khác biệt giữa người Ai Cập và người Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Thưa vua Pha-ra-ôn, hết thảy các quần thần của vua sẽ đến gặp tôi và quỳ trước mặt tôi. Họ sẽ nói, Đi đi, ông và dân của ông hãy đi đi!” Sau đó tôi sẽ rời đi.” Nói xong, Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn với vẻ giận dữ lắm.
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Pha-ra-ôn sẽ không nghe ngươi đâu. Việc này là để Ta sẽ làm nhiều phép lạ trong xứ Ai Cập.”
\v 10 Môi-se và A-rôn đã làm tất cả những phép lạ ấy trước mặt Pha-ra-ôn. Nhưng Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, và ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi xứ mình.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn trong xứ Ai Cập. Lời Ngài phán như vầy,
\v 2 “Tháng này sẽ là tháng đầu của các tháng trong năm, là tháng giêng của các ngươi.
\s5
\v 3 Hãy nói với hội chúng Y-sơ-ra-ên, Vào ngày thứ 10 của tháng này, mỗi gia đình phải bắt một con chiên hoặc dê con, mỗi nhà một con chiên.
\v 4 Nếu nhà nào quá ít người ăn không hết một con chiên, thì láng giềng của nhà đó phải lấy phần thịt chiên con hoặc thịt dê con đủ cho số người trong nhà của người đó. Mỗi người phải ăn đủ phần thịt, do đó họ phải lấy đủ phần thịt cho tất cả mọi người.
\s5
\v 5 Chiên con hoặc dê con của các ngươi phải là con đực hoàn hảo và được một tuổi. Các ngươi có thể chọn một con trong đàn chiên hoặc đàn dê.
\v 6 Các ngươi phải giữ nó đến ngày 14 tháng ấy. Sau đó, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên phải giết những con vật này vào lúc chạng vạng.
\v 7 Các ngươi phải lấy một chút huyết và bôi lên hai thanh dọc và trên thanh ngang của cửa nhà mà các ngươi sẽ ăn thịt tại đó.
\v 8 Các ngươi phải ăn thịt trong đêm ấy, sau khi đã nướng thịt trên lửa. Hãy ăn với bánh không men và rau đắng.
\s5
\v 9 Không được ăn thịt tái hoặc luộc trong nước. Trái lại, các ngươi hãy nướng phần đầu, chân và bộ lòng trên lửa.
\v 10 Các ngươi không được chừa lại bất cứ phần thịt nào cho đến sáng. Các ngươi phải đem thiêu bất cứ phần thịt nào còn lại vào buổi sáng.
\v 11 Đây là cách các ngươi phải ăn thịt đó: buộc thắt lưng, chân mang giày, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã. Đó là Lễ Vượt qua của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đi khắp xứ Ai Cập trong đêm đó và tấn công tất cả con đầu lòng của loài người và thú vật trong xứ. Ta sẽ giáng sự trừng phạt trên tất cả các thần của Ai Cập. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 13 Huyết sẽ là dấu hiệu trên nhà các ngươi vào đêm ấy. Khi Ta thấy huyết, Ta sẽ vượt qua các ngươi đang khi Ta tấn công xứ Ai Cập. Các ngươi sẽ không gặp tai họa này và sẽ không bị tiêu diệt.
\v 14 Ngày này sẽ trở thành ngày kỉ niệm của các ngươi, là lễ các ngươi phải giữ cho Đức Giê-hô-va. Lễ này sẽ luôn là quy luật của các ngươi, trải qua mọi đời con cháu các ngươi, các ngươi phải giữ ngày này.
\s5
\v 15 Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào ngày thứ nhất, các ngươi sẽ cất men khỏi nhà mình. Hễ ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy, người đó sẽ bị loại khỏi Y-sơ-ra-ên.
\v 16 Vào ngày thứ nhất sẽ có một lễ nhóm họp thánh, và ngày thứ bảy cũng sẽ có một lễ nhóm họp thánh. Không ai được làm việc trong các ngày này, ngoại trừ việc nấu nướng cho mọi người ăn uống. Đó là việc duy nhất các ngươi được phép làm.
\s5
\v 17 Các ngươi phải giữ Lễ Bánh không Men vì chính trong ngày này Ta đem các ngươi, quân đội các ngươi, ra khỏi xứ Ai Cập. Các ngươi phải giữ ngày này qua các thế hệ. Lễ này sẽ luôn là luật định đối với các ngươi.
\v 18 Các ngươi phải ăn bánh không men từ hoàng hôn ngày 14 tháng giêng đến hoàng hôn ngày 21 tháng giêng.
\s5
\v 19 Trong bảy ngày này, trong nhà các ngươi sẽ không có men. Hễ ai ăn bánh có men sẽ bị loại khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên, dù đó là người ngoại quốc hay người được sinh ra trong xứ các ngươi.
\v 20 Các ngươi không được ăn những gì có men. Dù sống ở bất cứ nơi nào, các ngươi phải ăn bánh không men.’”
\s5
\v 21 Sau đó, Môi-se mời tất cả trưởng lão của Y-sơ-ra-ên đến và nói: “Hãy đi chọn chiên con cho mỗi gia đình quý vị và giết con chiên đó cho Lễ Vượt qua.
\v 22 Sau đó lấy một bó cây bài hương nhúng vào chậu huyết. Bôi huyết trong chậu lên đầu khung cửa và hai thanh dọc. Không ai được ra khỏi nhà mình cho đến sáng hôm sau.
\s5
\v 23 Vì Đức Giê-hô-va sẽ đi ngang qua để tấn công người Ai Cập. Khi Ngài thấy huyết trên đầu khung cửa và trên hai thanh dọc, Ngài sẽ lướt qua cửa nhà quý vị và không cho phép thần hủy diệt vào nhà tấn công quý vị.
\s5
\v 24 Quý vị phải giữ lễ này. Đây sẽ luôn là quy định dành cho quý vị và con cháu quý vị.
\v 25 Khi quý vị vào xứ mà Đức Giê-hô-va ban cho, như Ngài đã hứa, quý vị phải giữ sự thờ phượng này.
\s5
\v 26 Khi con cái quý vị hỏi: Hành động thờ phượng này có nghĩa là gì?
\v 27 hãy trả lời: ‘Đó là sinh tế trong Lễ Vượt qua của Đức Giê-hô-va, vì Đức Giê-hô-va đã vượt qua nhà của người Y-sơ-ra-ên ở Ai Cập khi Ngài tấn công dân Ai Cập. Ngài đã chừa lại nhà của chúng ta.” Sau đó dân sự quỳ xuống và tôn thờ Đức Giê-hô-va.
\v 28 Dân Y-sơ-ra-ên đi và làm theo y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se và A-rôn.
\s5
\v 29 Vào nửa đêm, Đức Giê-hô-va tấn công hết thảy con đầu lòng ở xứ Ai Cập, từ con đầu lòng của Pha-ra-ôn, là con ngồi trên ngai vua ấy, cho đến con đầu lòng của người bị cầm tù và con đầu của gia súc.
\v 30 Pha-ra-ôn thức dậy trong đêm đó ông, tất cả quần thần, và toàn bộ dân Ai Cập. Có tiếng than khóc lớn tại Ai Cập, vì không nhà nào mà không có người chết.
\s5
\v 31 Pha-ra-ôn triệu tập Môi-se và A-rôn trong đêm và nói: “Hãy đứng dậy, ngươi và dân Y-sơ-ra-ên hãy ra khỏi giữa dân ta. Hãy đi thờ phượng Giê-hô-va như các ngươi muốn.”
\v 32 Hãy đem theo các đàn gia súc của các ngươi, như các ngươi đã nói, hãy đi, và cũng hãy cầu chúc cho ta.”
\v 33 Người Ai Cập vội vã hối dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ, vì họ nói: “Tất cả chúng ta đều chết hết.”
\s5
\v 34 Vậy dân sự đem theo bột đã nhào nhưng chưa kịp dậy men. Họ cột các chén nhào bột vào trong quần áo và vác trên vai.
\v 35 Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên làm y như lời Môi-se đã nói. Họ hỏi xin người Ai Cập cho các đồ bằng bạc, vàng và quần áo.
\v 36 Đức Giê-hô-va khiến người Ai Cập tích cực đáp ứng yêu cầu của người Y-sơ-ra-ên. Vậy người Ai Cập đưa cho họ bất cứ thứ gì họ xin. Bởi đó, dân Y-sơ-ra-ên cưỡng đoạt dân Ai Cập.
\s5
\v 37 Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ram-sét đến Su-cốt. Có khoảng 600. 000 người nam đi bộ, ngoài phụ nữ và trẻ em.
\v 38 Cũng có một đám dân tạp đi với họ, cùng số lượng lớn các bầy đàn gia súc.
\v 39 Họ nướng bánh không men nhào với bột mà họ đem khỏi Ai Cập. Đó là bột không men vì họ đã bị đuổi ra khỏi Ai Cập và không kịp chuẩn bị thức ăn.
\v 40 Dân Y-sơ-ra-ên đã sống tại Ai Cập được 430 năm.
\s5
\v 41 Vào cuối 430 năm, chính ngày đó, tất cả các quân đội của Đức Giê-hô-va đã ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 42 Đây là đêm phải thức tỉnh để Đức Giê-hô-va đem họ ra khỏi xứ Ai Cập. Đây là đêm của Đức Giê-hô-va mà mọi thế hệ trong dân Y-sơ-ra-ên phải giữ.
\s5
\v 43 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se và A-rôn: “Đây là quy định về Lễ Vượt qua: không người ngoại quốc nào được ăn lễ ấy.
\v 44 Tuy nhiên, nô lệ của người Y-sơ-ra-ên, được mua bằng tiền, có thể ăn lễ đó sau khi đã làm phép cắt bì.
\s5
\v 45 Người ngoại quốc và đầy tớ được thuê mướn không được ăn bất cứ món nào trong lễ ấy.
\v 46 Các ngươi phải ăn thức ăn đó trong nhà. Các ngươi không được đem bất cứ phần thịt nào ra khỏi nhà cũng không được phép làm gãy bất kỳ xương nào trong đó.
\s5
\v 47 Cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải giữ lễ này.
\v 48 Nếu một người ngoại quốc sống với các ngươi và muốn giữ Lễ Vượt qua cho Đức Giê-hô-va, thì tất cả những người nam trong họ hàng người đó phải được cắt bì. Sau đó người mới có thể đến và giữ lễ. Người sẽ trở nên giống như dân bản xứ. Tuy nhiên, không người nào được phép ăn bất kỳ món nào nếu chưa cắt bì.
\s5
\v 49 Luật này sẽ áp dụng với cả người bản xứ và người ngoại quốc sống giữa các ngươi.”
\v 50 Vậy tất cả dân Y-sơ-ra-ên làm theo y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se và A-rôn.
\v 51 Chính trong ngày đó, Đức Giê-hô-va đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập theo quân đội của họ.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy biệt riêng cho Ta mọi con đầu lòng, con đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên và các loài động vật. Con đầu lòng thuộc về Ta.”
\s5
\v 3 Môi-se nói với dân sự: “Hãy ghi nhớ ngày này, là ngày quý vị ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ, vì Đức Giê-hô-va đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Ngài đem quý vị ra khỏi nơi này. Đừng ăn bánh có men.
\v 4 Hôm nay quý vị ra khỏi Ai Cập, nhằm ngày trong tháng A-bi.
\v 5 Khi Đức Giê-hô-va đem quý vị vào xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, là xứ mà Ngài đã thề với tổ tiên quý vị để ban cho quý vị, một xứ đượm sữa và mật vậy hãy giữ lễ thờ phượng này trong tháng này.
\s5
\v 6 Vì quý vị phải ăn bánh không men trong bảy ngày; ngày thứ bảy sẽ là kỳ lễ được tổ chức để tỏ lòng tôn kính Đức Giê-hô-va.
\v 7 Quý vị phải ăn bánh không men trong suốt bảy ngày; không có bánh có men nào được thấy giữa quý vị. Không có men nào được thấy nơi quý vị trong lãnh thổ quý vị.
\s5
\v 8 Ngày hôm đó, hãy nói với con cái mình rằng: Cha mẹ làm điều này là để tưởng nhớ việc Đức Giê-hô-va đã làm cho cha mẹ khi cha mẹ ra khỏi Ai Cập.
\v 9 Đây sẽ là lời nhắc nhở trên tay quý vị, và là lời nhắc nhở trên trán quý vị. Hầu cho miệng quý vị có thể dạy dỗ luật pháp của Đức Giê-hô-va, vì Đức Giê-hô-va đã dùng tay mạnh mẽ của Ngài đem quý vị ra khỏi Ai Cập.
\v 10 Vậy, hãy giữ luật này vào thời gian như đã định hàng năm.
\s5
\v 11 Khi Đức Giê-hô-va đem quý vị vào xứ của dân Ca-na-an, như Ngài đã thề với quý vị và tổ tiên quý vị, và khi Ngài ban xứ đó cho quý vị,
\v 12 quý vị phải biệt riêng cho Ngài mọi con đầu lòng của quý vị và súc vật. Con đực sẽ thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 13 Riêng với con đầu lòng của con lừa, quý vị phải mua một con chiên để chuộc lại. Nếu không chuộc lại, quý vị phải bẻ cổ nó. Nhưng riêng với mỗi con đầu lòng nam giữa con trai của quý vị - hãy chuộc lại chúng.
\s5
\v 14 Khi sau này con cái quý vị hỏi: Điều này có nghĩa là gì? hãy trả lời: Ấy là bởi Đức Giê-hô-va dùng tay quyền năng Ngài đem chúng ta ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ.
\v 15 Khi Pha-ra-ôn ương ngạnh không cho cha mẹ đi, Đức Giê-hô-va đã giết mọi con đầu lòng ở Ai Cập, cả con đầu lòng của loài người và súc vật. Đó là lý do cha mẹ dâng con đầu lòng của con người và súc vật cho Đức Giê-hô-va, và là lý do cha mẹ chuộc lại con đầu lòng trong số các con trai của cha mẹ.
\v 16 Đây sẽ là lời nhắc nhở trên tay và trên trán quý vị, vì chính Đức Giê-hô-va đã dùng tay mạnh mẽ của Ngài đem chúng ta ra khỏi Ai Cập.”
\s5
\v 17 Khi Pha-ra-ôn để cho dân sự ra đi, Đức Chúa Trời không dẫn họ đi qua xứ của dân Phi-li-tin, dù xứ đó gần. Vì Đức Chúa Trời nói: “Có lẽ chúng sẽ đổi ý khi chúng chiến tranh với dân đó và trở về xứ Ai Cập.”
\v 18 Vì vậy, Đức Chúa Trời dẫn dân sự đi qua đồng vắng để đến Biển Đỏ. Dân Y-sơ-ra-ên được vũ trang để chiến đấu đứng dậy ra khỏi xứ Ai Cập.
\s5
\v 19 Môi-se đem theo hài cốt của Giô-sép, vì Giô-sép đã bắt dân Y-sơ-ra-ên long trọng thề và nói rằng: “Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ gìn giữ các ngươi, hãy đem hài cốt ta theo các ngươi.”
\v 20 Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Su-cốt và cắm trại ở Ê-tam, ngay rìa của đồng vắng.
\v 21 Đức Giê-hô-va dẫn họ đi trong ban ngày bằng trụ mây. Ban đêm, Ngài dẫn họ đi bằng một trụ lửa để soi sáng họ. Bởi đó, họ có thể đi được cả ngày lẫn đêm.
\v 22 Đức Giê-hô-va không cất trụ mây ban ngày hoặc trụ lửa ban đêm khỏi trước mặt dân sự.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se:
\v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên quay lại và cắm trại đối diện Phi Ha-hi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện Ba-anh Xê-phôn. Các ngươi phải cắm trại ngay biển đối diện Phi Ha-hi-rốt”.
\v 3 Pha-ra-ôn sẽ nói về dân Y-sơ-ra-ên: “Chúng đang lẩn quẩn trong xứ. Đồng vắng đã chặn hết đường của chúng”.
\s5
\v 4 Ta sẽ làm cứng lòng Pha-ra-ôn, nó sẽ đuổi theo họ. Ta sẽ được tôn kính vì cớ Pha-ra-ôn và quân đội nó. Người Ai Cập sẽ biết rằng Ta là Đức Giê-hô-va.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại theo như sự hướng dẫn.
\v 5 Khi vua Ai Cập được báo rằng dân Y-sơ-ra-ên đã bỏ trốn, Pha-ra-ôn và quần thần ông đều đổi ý chống lại dân sự. Họ nói: “Chúng ta đã làm gì khi thả cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi để chúng không làm việc cho chúng ta?”
\s5
\v 6 Vậy Pha-ra-ôn chuẩn bị các xe chiến mã và dẫn theo quân đội.
\v 7 Ông đem 600 xe chiến mã được tuyển chọn và tất cả xe chiến mã khác của Ai Cập, với các sĩ quan chỉ huy các xe đó.
\v 8 Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, ông đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên đã ra đi thắng lợi vẻ vang.
\v 9 Nhưng người Ai Cập đuổi theo họ, cùng với ngựa, xe chiến mã, kỵ binh và quân đội của vua. Chúng đuổi kịp người Y-sơ-ra-ên đang khi họ cắm trại ở bờ biển gần Phi Ha-hi-rốt, đối diện Ba-anh Xê-phôn.
\s5
\v 10 Khi Pha-ra-ôn đến gần, người Y-sơ-ra-ên nhìn lên và ngạc nhiên. Người Ai Cập đang hành quân sau họ, và họ kinh hãi. Dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Giê-hô-va.
\v 11 Họ nói với Môi-se: “Bộ không có mồ mả ở Ai Cập nên ông mới dẫn chúng tôi ra đi để chết trong đồng vắng này chăng? Sao ông đối xử với chúng tôi như vậy, sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập?
\v 12 Chẳng phải đây là điều chúng tôi đã bảo ông khi ở Ai Cập? Chúng tôi đã nói rằng, Hãy để chúng tôi yên, đặng chúng tôi có thể làm việc cho người Ai Cập. Lẽ ra chúng tôi làm việc cho họ thì tốt hơn là chết trong đồng vắng.’”
\s5
\v 13 Môi-se trả lời dân sự: “Đừng sợ. Hãy đứng yên và xem sự giải cứu mà Đức Giê-hô-va sẽ làm trên quý vị hôm nay. Vì quý vị sẽ chẳng bao giờ thấy người Ai Cập mà ngày nay quý vị thấy.
\v 14 Đức Giê-hô-va sẽ tranh chiến cho quý vị, chỉ hãy đứng yên.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hỡi Môi-se, tại sao ngươi cứ kêu cầu Ta? Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên đi tiếp.
\v 16 Hãy giơ gậy ngươi lên, hướng về biển và chia biển làm đôi, để dân Y-sơ-ra-ên băng qua biển trên đất khô.
\v 17 Hãy biết rằng Ta sẽ làm cứng lòng người Ai Cập, khiến chúng đuổi theo họ. Ta sẽ được tôn kính vì cớ Pha-ra-ôn và đội quân, xe chiến mã, và kỵ binh của nó.
\v 18 Rồi dân Ai Cập sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va khi Ta được tôn kính vì cớ Pha-ra-ôn, các xe chiến mã và kỵ binh của nó.”
\s5
\v 19 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va vốn đi trước người Y-sơ-ra-ên, di chuyển ra phía sau họ. Trụ mây chuyển từ phía trước họ về phía sau.
\v 20 Mây phủ giữa trại của Ai Cập và trại của Y-sơ-ra-ên. Với người Ai Cập thì đó là mây tối, nhưng mây đã soi sáng cho dân Y-sơ-ra-ên vào ban đêm, để người Ai Cập không tiếp cận phía bên kia được.
\s5
\v 21 Môi-se giơ tay ra trên biển. Đức Giê-hô-va dùng một trận gió đông mạnh thổi lui biển trong suốt đêm đó và khiến đất khô dưới biển lộ ra. Như vậy nước biển bị chia đôi.
\v 22 Dân Y-sơ-ra-ên đi vào giữa biển trên đất khô. Nước tụ lại thành một bức tường ở cả bên trái và bên phải.
\s5
\v 23 Người Ai Cập rượt theo họ. Hết thảy ngựa, xe chiến mã, và kỵ binh của Pha-ra-ôn đuổi theo họ vào lòng biển.
\v 24 Nhưng sáng sớm hôm sau, Đức Giê-hô-va từ trụ lửa và trụ mây nhìn xuống đội quân Ai Cập. Ngài khiến người Ai Cập hoảng sợ.
\v 25 Các bánh xe chiến mã bị kẹt, kỵ binh không điều khiển được. Người Ai Cập nói rằng: “Chúng ta hãy chạy trốn khỏi Y-sơ-ra-ên, vì Giê-hô-va đang thay họ tranh chiến lại chúng ta.”
\s5
\v 26 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy giơ tay ra trên biển để nước nhấn chìm người Ai Cập, các xe chiến mã và kỵ binh của chúng.”
\v 27 Vậy Môi-se giơ tay ra trên biển, biển trở lại trạng thái bình thường vào bình minh hôm sau. Người Ai Cập bỏ chạy xuống biển, Đức Giê-hô-va đã đuổi người Ai Cập xuống giữa biển.
\v 28 Nước biển đổ sập xuống và chôn vùi các xe chiến mã, kỵ binh, và toàn bộ quân đội của Pha-ra-ôn dưới nước. Không ai sống sót.
\s5
\v 29 Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên đã đi trên đất khô ở giữa biển. Nước tụ lại thành bức tường ở cả hai bên.
\v 30 Vậy, ngày hôm đó Đức Giê-hô-va đã giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay người Ai Cập, họ thấy xác của người Ai Cập trôi dạt vào bờ biển.
\v 31 Khi Y-sơ-ra-ên thấy quyền năng lớn lao mà Đức Giê-hô-va đã thể hiện trên người Ai Cập, họ tôn kính Đức Giê-hô-va, họ tin cậy Đức Giê-hô-va và tôi tớ Ngài là Môi-se.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Vậy Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên hát bài ca này dâng lên Đức Giê-hô-va: “Tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài đã đắc thắng vinh quang; ngựa và kỵ binh đều bị Ngài quăng xuống biển.
\s5
\v 2 Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là bài ca của tôi, Ngài là sự cứu rỗi của tôi. Này là Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ ngợi khen Ngài, Ngài là Đức Chúa Trời của tổ tiên tôi, tôi sẽ tôn ngợi Ngài.
\v 3 Đức Giê-hô-va là chiến binh; danh Ngài là Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Ngài quăng các xe chiến mã và quân đội của Pha-ra-ôn xuống biển. Các sĩ quan được tuyển chọn của Pha-ra-ôn bị nhấn chìm xuống biển Sậy.
\v 5 Vực sâu bao phủ chúng; chúng như cục đá chìm xuống đáy vực sâu.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va ơi, tay phải Ngài bày tỏ quyền năng vinh quang; Đức Giê-hô-va ơi, tay phải Ngài đánh tan quân thù.
\v 7 Với đại quyền lớn lao, Ngài đánh đổ những kẻ nổi dậy chống lại Ngài. Ngài nổi cơn thạnh nộ; thiêu đốt chúng như gốc rạ.
\v 8 Bởi hơi thở từ lỗ mũi Ngài, nước liền dồn lại; nước biển dựng lên thành một đống; nước dưới lòng biển sâu khựng lại.
\s5
\v 9 Quân thù nói, Ta sẽ đuổi bắt, ta sẽ bắt kịp, ta sẽ chia của cướp; ta sẽ tha hồ; ta sẽ rút gươm ra; tay ta sẽ tiêu diệt chúng.
\v 10 Nhưng Ngài thổi bằng một trận gió, và biển bao phủ chúng; chúng chìm như chì xuống đáy nước sâu.
\v 11 Đức Giê-hô-va ơi, trong các thần có ai như Ngài? Ai uy nghiêm thánh khiết, được tôn kính ngợi khen, làm phép lạ như Ngài?
\s5
\v 12 Ngài giơ tay phải ra, khiến đất nuốt chúng.
\v 13 Bằng sự thành tín về giao ước, Ngài dẫn dắt dân được cứu. Bằng sức mạnh, Ngài dẫn họ đến nơi ngự thánh của Ngài.
\s5
\v 14 Các dân sẽ nghe và run sợ; sự kinh hãi sẽ bao vây cư dân xứ Phi-li-tin.
\v 15 Các tướng lĩnh Ê-đôm sẽ sợ hãi; binh lính của Mô-áp sẽ run rẩy; hết thảy cư dân Ca-na-an sẽ tan biến.
\s5
\v 16 Sự kinh hãi và khiếp đảm sẽ giáng trên chúng. Vì quyền năng trong tay Ngài, chúng sẽ đứng chết trân như đá cho đến khi người ta đi ngang qua, Đức Giê-hô-va ơi cho đến khi dân được cứu của Ngài đi ngang qua.
\s5
\v 17 Ngài sẽ đem họ vào và trồng trên núi của cơ nghiệp Ngài, Đức Giê-hô-va ơi, là nơi mà Ngài đã dựng nên cho họ sống, lạy Chúa của chúng con, là nơi thánh mà tay Ngài đã dựng nên.
\v 18 Đức Giê-hô-va sẽ cai trị đời đời vô cùng.”
\s5
\v 19 Vì ngựa cùng các xe chiến mã và kỵ binh của Pha-ra-ôn chạy xuống biển, nên Đức Giê-hô-va khiến nước biển nhấn chìm chúng. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên bước đi trên đất khô ở giữa biển.
\v 20 Nữ tiên tri Mi-ri-am, chị của A-rôn, cầm một cái trống lục lạc, và tất cả những người nữ cầm trống lục lạc đi ra, nhảy múa cùng với bà.
\v 21 Mi-ri-am hát với họ: “Hãy hát cho Đức Giê-hô-va, vì Ngài đắc thắng vinh quang. Ngài đã ném ngựa và kỵ binh xuống biển.”
\s5
\v 22 Sau đó, Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên đi tiếp từ biển Sậy. Họ vào đồng vắng Su-rơ. Họ đi trong ba ngày trong đồng vắng và không tìm được nước.
\v 23 Khi đến Ma-ra, họ không thể uống nước tại đó vì nước có vị đắng. Vậy họ gọi nơi đó là Ma-ra.
\s5
\v 24 Dân sự oán trách Môi-se mà rằng: “Chúng tôi có thể uống gì đây?”
\v 25 Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va chỉ cho ông thấy một khúc cây. Môi-se quăng khúc cây ấy xuống nước, nước liền hóa nên ngọt. Chính tại nơi đó Đức Giê-hô-va ban cho họ một luật lệ nghiêm khắc, và chính tại nơi đó Ngài thử họ.
\v 26 Ngài phán: “Nếu các ngươi cẩn thận lắng nghe Ta, là Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, và làm điều thiện trước mặt Ta nếu các ngươi chú ý đến điều răn Ta và vâng giữ luật pháp Ta, Ta sẽ không giáng trên các ngươi bất cứ bệnh tật nào như Ta đã giáng trên dân Ai Cập; vì Ta là Giê-hô-va, Đấng chữa lành các ngươi.”
\s5
\v 27 Sau đó dân sự đến Ê-lim, là nơi có 12 suối nước và 70 cây chà là. Họ hạ trại tại đó bên cạnh các suối nước.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Dân sự đi tiếp từ Ê-lim, và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên tiến vào đồng vắng Sin, giữa Ê-lim và Si-nai, nhằm ngày 15 tháng thứ hai sau khi họ rời khỏi xứ Ai Cập.
\v 2 Cả hội chúng người Y-sơ-ra-ên oán trách Môi-se và A-rôn trong đồng vắng.
\v 3 Người Y-sơ-ra-ên nói với hai ông: “Giá như tay Đức Giê-hô-va giết chúng tôi trong xứ Ai Cập khi chúng tôi đang ngồi ăn bên các nồi thịt và ăn bánh no nê. Vì hai ông đã đem chúng tôi vào trong đồng vắng này đặng giết cả hội chúng bằng cơn đói.”
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta sẽ giáng mưa bánh từ trời xuống cho các ngươi. Chúng sẽ đi ra và gom phần ăn cho ngày đó đặng Ta thử chúng và xem chúng có vâng theo luật pháp Ta không.
\v 5 Ngày thứ sáu, chúng sẽ gom gấp hai lần so với những ngày khác, và nấu phần mình đã gom.”
\s5
\v 6 Sau đó Môi-se và A-rôn nói cùng dân Y-sơ-ra-ên: “Đến chiều tối, quý vị sẽ biết rằng chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã đem quý vị ra khỏi xứ Ai CẬp.
\v 7 Đến sáng mai, quý vị sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-hô-va, vì Ngài có nghe lời oán trách của quý vị về Ngài. Chúng tôi là ai mà quý vị oán trách chúng tôi?”
\v 8 Môi-se nói thêm: “Quý vị sẽ biết điều này khi Đức Giê-hô-va ban thịt cho quý vị vào chiều nay và sáng mai sẽ được ăn bánh no nê vì Ngài có nghe lời quý vị oán trách Ngài. A-rôn và tôi là ai? Quý vị oán trách không phải là oán trách chúng tôi, mà là oán trách Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 9 Môi-se nói với A-rôn: “Anh hãy nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, Hãy đến gần trước mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài có nghe lời oán trách của quý vị.’”
\v 10 Khi A-rôn nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, dân sự nhìn về phía đồng vắng, và kìa, vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra trong đám mây.
\v 11 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 12 “Ta đã nghe mọi lời oán trách của dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói với chúng rằng, Đến chiều tối, các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai các ngươi sẽ được ăn bánh no nê. Rồi các ngươi sẽ biết Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi.”
\s5
\v 13 Buổi chiều, chim cút bay đến và phủ kín cả trại. Đến sáng có lớp sương phủ khắp trại.
\v 14 Khi lớp sương ấy tan đi, kìa, trên đất đồng vắng hiện ra một thứ mỏng mịn, mịn như sương muối trên đất.
\v 15 Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy thứ đó, họ nói với nhau: “Đây là gì?” Họ không biết thứ đó. Môi-se nói với họ: “Đây là bánh mà Đức Giê-hô-va ban cho quý vị.
\s5
\v 16 Này là mạng lệnh Đức Giê-hô-va đã truyền: Mỗi người phải gom đủ số lượng cần ăn, mỗi người gom 1 ô-me theo số người ở trong lều. Nghĩa là: hãy gom đủ cho từng người trong lều mình.’”
\v 17 Dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy. Một số thì gom nhiều hơn, một số thì gom ít hơn.
\v 18 Khi họ đã gom đủ 1 ô-me, thì ai gom nhiều cũng ăn hết, ai gom ít cũng không thiếu. Mỗi người đều gom đủ tùy theo nhu cầu mình.
\s5
\v 19 Môi-se nói với họ: “Không ai được chừa lại đến sáng hôm sau.”
\v 20 Tuy nhiên, họ không nghe lời Môi-se. Có người chừa lại một ít bánh đến sáng hôm sau, nhưng bánh nổi giòi và có mùi hôi thối. Vậy Môi-se giận họ.
\v 21 Họ gom bánh vào mỗi buổi sáng. Mỗi người gom đủ phần ăn trong ngày đó. Khi mặt trời lên cao, bánh còn sót lại trên đất tan biến.
\s5
\v 22 Vào ngày thứ sáu, họ gom nhiều gấp đôi so với những ngày khác, mỗi người được 2 ô-me. Các lãnh đạo trong hội chúng đến gặp Môi-se.
\v 23 Ông nói với họ: “Đây là lời Đức Giê-hô-va phán: Ngày mai là ngày yên nghỉ, là ngày Sa-bát thánh để tôn kính Đức Giê-hô-va. Hãy nấu thứ gì mà quý vị muốn nấu, luộc thứ gì mình muốn luộc. Những gì còn dư, hãy để cho sáng mai.’”
\s5
\v 24 Vậy họ để bánh ấy riêng cho sáng hôm sau, như Môi-se đã chỉ dẫn. Bánh không bị thối, cũng không bị giòi bọ.
\v 25 Môi-se nói: “Hôm nay quý vị hãy ăn phần đó, vì hôm nay là ngày Sa-bát được dành riêng để tôn kính Đức Giê-hô-va. Hôm nay quý vị sẽ không thấy bánh đó ngoài đồng.
\s5
\v 26 Quý vị sẽ gom bánh trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát. Ngày Sa-bát sẽ không có ma-na.”
\v 27 Vào ngày thứ bảy có một số người đi ra đồng để gom ma-na nhưng họ không tìm được cái nào.
\s5
\v 28 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Các ngươi còn không giữ điều răn và luật pháp Ta cho đến khi nào?
\v 29 Hãy xem, Ta, Đức Giê-hô-va đã ban cho các ngươi ngày Sa-bát. Vậy vào ngày thứ sáu, Ta sẽ ban bánh cho các ngươi đủ trong hai ngày. Mỗi người trong các ngươi phải ở trong lều mình; không ai được ra khỏi nơi mình trong ngày thứ bảy.”
\v 30 Vậy dân sự nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy.
\s5
\v 31 Dân Y-sơ-ra-ên gọi thức ăn đó là “ma-na”. Ma-na có màu trắng như hạt cây rau mùi, mùi vị như bánh quế trộn với mật ong.
\v 32 Môi-se nói: “Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền: Hãy giữ 1 ô-me ma-na qua các đời của các ngươi để con cháu các ngươi thấy bánh mà Ta đã nuôi các ngươi trong đồng vắng, sau khi Ta đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập.’”
\s5
\v 33 Môi-se nói với A-rôn: “Anh hãy lấy một cái nồi và nhặt 1ô-me ma-na bỏ vào đó. Hãy giữ ma-na này trước mặt Đức Giê-hô-va trong các thế hệ.”
\v 34 Như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se, A-rôn đựng ma-na trong bình đặt bên cạnh chứng cớ.
\v 35 Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trong 40 năm cho đến khi bước vào xứ Ca-na-an.
\v 36 Bấy giờ 1 ô-me bằng 1/10 của 1 ê-pha.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi tiếp từ đồng vắng Sin, theo lời hướng dẫn của Đức Giê-hô-va. Họ hạ trại tại Rê-phi-đim, nhưng nơi đó không có nước cho dân sự uống.
\v 2 Vì vậy họ đổ thừa Môi-se về tình huống đó và rằng: “Hãy cho chúng tôi nước uống.” Môi-se đáp: “Sao quý vị gây sự với tôi? Sao quý vị thử Đức Giê-hô-va?”
\v 3 Dân sự rất khát nước, và họ oán trách Môi-se. Họ nói: “Sao các ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập? Để giết chúng tôi cùng con cháu chúng tôi và gia súc bằng cơn khát sao?”
\s5
\v 4 Vậy Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va: “Con nên làm gì với dân này? Thiếu điều họ ném đá con.”
\v 5 Đức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se: “Hãy đi trước dân sự, và đem theo ngươi vài trưởng lão trong Y-sơ-ra-ên. Hãy đem theo cây gậy mà ngươi đã đập dưới nước và ra đi.
\v 6 Ta sẽ đứng trước mặt ngươi tại hòn đá ở Hô-rếp, hãy đập vào hòn đá đó. Nước sẽ chảy ra khỏi hòn đá để dân sự uống.” Môi-se làm y như vậy trước mặt các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Ông gọi nơi đó là Ma-sa và Mê-ri-ba vì cớ lời oán trách của Y-sơ-ra-ên, và vì họ đã thử Chúa khi nói rằng: “Đức Giê-hô-va có ngự giữa chúng ta không?”
\s5
\v 8 Sau đó, một đội quân của người A-ma-léc đến tấn công Y-sơ-ra-ên tại Rê-phi-đim.
\v 9 Môi-se nói cùng Giô-suê: “Hãy chọn vài người nam và ra trận. Hãy chiến đấu chống lại dân A-ma-léc. Ngày mai ta sẽ đứng trên đỉnh đồi cầm cây gậy của Đức Chúa Trời trong tay.”
\v 10 Vậy Giô-suê đánh dân A-ma-léc như Môi-se đã ra lệnh, trong khi Môi-se, A-rôn, và Hu-rơ lên đỉnh đổi.
\s5
\v 11 Hễ Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-sơ-ra-ên thắng; hễ ông hạ tay xuống, thì dân A-ma-léc bắt đầu thắng.
\v 12 Khi Môi-se mỏi tay, A-rôn và Hu-rơ lấy một cục đá và đặt dưới chân ông để ông ngồi. Đồng thời, A-rôn và Hu-rơ giữ hai tay của ông, một người ở bên này, và người kia ở bên kia. Vậy tay của Môi-se được giữ vững cho đến khi mặt trời lặn.
\v 13 Do đó Giô-suê đánh bại dân A-ma-léc bằng gươm.
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy chép lại điều này trong một quyển sách và đọc cho Giô-suê nghe rõ, vì Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm hoàn toàn về A-ma-léc dưới trời.”
\v 15 Vậy Môi-se dựng một bàn thờ và đặt tên “Đức Giê-hô-va là ngọn cờ của tôi.”
\v 16 Ông làm như vậy, vì ông nói: “Đức Giê-hô-va đã thề rằng Ngài sẽ đánh dân A-ma-léc từ đời này qua đời kia.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Giê-trô, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an, cha vợ của Môi-se, đã nghe về tất cả mọi việc Đức Chúa Trời làm cho Môi-se và Y-sơ-ra-ên là dân Ngài. Ông có nghe rằng Đức Giê-hô-va đã đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
\v 2 Giê-trô, cha vợ Môi-se, đã nhận lại Sê-phô-ra, vợ Môi-se, sau khi ông cho bà về nhà,
\v 3 và hai con trai; một người tên là Ghẹt-sôm, vì Môi-se nói rằng: “Tôi là người ngoại quốc ở xứ ngoại quốc.”
\v 4 Người còn lại tên là Ê-li-ê-xe, vì Môi-se nói rằng: “Đức Chúa Trời của tổ tiên tôi là Đấng giúp đỡ tôi. Ngài đã cứu tôi khỏi gươm của Pha-ra-ôn.”
\s5
\v 5 Giê-trô, cha vợ Môi-se, dẫn hai con trai và vợ của Môi-se đến gặp Môi-se trong đồng vắng là nơi ông đang hạ trại dưới chân núi của Đức Chúa Trời.
\v 6 Ông nói với Môi-se: “Cha Giê-trô, cha vợ của con, có dẫn theo vợ và hai con trai của con đến gặp con đây.”
\s5
\v 7 Môi-se đi ra gặp cha vợ mình, quỳ xuống, và hôn người. Họ hỏi thăm nhau rồi vào trong lều.
\v 8 Môi-se kể cho cha vợ về mọi điều Đức Giê-hô-va đã giáng trên Pha-ra-ôn và dân Ai Cập vì cớ dân Y-sơ-ra-ên, về mọi gian khó họ đã gặp dọc đường, và cách Đức Giê-hô-va giải cứu họ.
\s5
\v 9 Giê-trô vui mừng về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên, Ngài đã giải cứu họ khỏi sức mạnh của người Ai Cập.
\v 10 Giê-trô nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va được ngợi khen, vì Ngài đã giải cứu các con khỏi người Ai Cập và quyền lực của Pha-ra-ôn, Ngài đã giải thoát họ khỏi sự cai trị của chúng.
\v 11 Bây giờ cha biết rằng Đức Giê-hô-va lớn hơn tất cả các thần, vì khi người Ai Cập đối xử ngạo mạn với người Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Ngài.”
\s5
\v 12 Giê-trô, cha vợ Môi-se, dâng một của lễ thiêu và các của tế lễ lên Đức Chúa Trời. A-rôn và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến ăn trước mặt Đức Chúa Trời cùng với cha vợ của Môi-se.
\s5
\v 13 Hôm sau, Môi-se ngồi xét xử dân sự. Dân chúng đứng quanh ông từ sáng đến chiều tối.
\v 14 Khi cha vợ Môi-se thấy mọi điều ông đã làm cho dân sự, ông nói: “Con đang làm gì với dân này vậy? Sao con phải ngồi một mình và mọi người đứng quanh con từ sáng đến tối?”
\s5
\v 15 Môi-se trả lời cha vợ ông: “Dân này đến gặp con đặng muốn biết sự hướng dẫn của Chúa.
\v 16 Khi họ tranh cãi, họ đến gặp con. Con phân xử giữa người này với người kia, và dạy họ các quy chế cùng luật pháp của Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 17 Cha vợ Môi-se nói cùng ông: “Điều con đang làm thật không tốt.
\v 18 Chắc chắn con và những người đến gặp con sẽ mệt mỏi, vì gánh nặng này quá nặng nề cho con. Con không thể làm một mình.
\v 19 Hãy nghe cha. Cha sẽ cho con lời khuyên, và Đức Chúa Trời sẽ ở cùng con, vì con là người đại diện của dân sự trước mặt Đức Chúa Trời, con sẽ trình lên Ngài mọi sự bất đồng của họ.
\v 20 Con phải dạy dỗ họ các quy chế và luật pháp Ngài. Con phải chỉ cho họ con đường phải đi và việc cần làm.
\s5
\v 21 Hơn nữa, con phải chọn những người có năng lực từ trong dân sự, những người nam tôn kính Chúa, những con người chân thật ghét của hối lộ. Con phải đặt họ cai trị dân sự, làm lãnh đạo của hàng ngàn, hàng trăm, năm chục, và mười người.
\v 22 Họ sẽ xét xử dân sự đối với tất cả các việc thường, nhưng việc nào khó thì họ sẽ đưa cho con xét xử. Với tất cả những việc thường, họ có thể xét xử. Bởi đó sẽ dễ dàng hơn cho con, họ sẽ cùng con chia sẻ gánh nặng.
\v 23 Nếu con làm vậy, và nếu Đức Chúa Trời truyền con phải làm vậy, con sẽ có thể chịu đựng, và cả dân sự sẽ thỏa mãn mà về nhà.”
\s5
\v 24 Vậy Môi-se nghe lời của cha vợ mình và làm mọi điều y như ông đã nói.
\v 25 Môi-se chọn những người có năng lực từ trong Y-sơ-ra-ên và lập họ làm đầu dân sự, lãnh đạo một ngàn, một trăm, năm mươi, và mười người.
\v 26 Họ xét xử dân sự đối với các việc thường. Việc nào khó thì họ chuyển qua cho Môi-se, còn họ tự xét xử tất cả những việc nhỏ.
\v 27 Môi-se tiễn cha vợ mình, và Giê-trô trở về trong xứ của ông.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đến tháng ba sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã ra khỏi xứ Ai Cập, trong ngày đó, họ đến đồng vắng Si-nai.
\v 2 Sau khi rời Rê-phi-đim và đến đồng vắng Si-nai, họ hạ trại ở đồng vắng đối diện núi.
\s5
\v 3 Môi-se lên núi để ra mắt Đức Chúa Trời. Đức Giê-hô-va gọi ông từ trên núi và phán rằng: “Ngươi phải nói với nhà Gia-cốp, dân Y-sơ-ra-ên:
\v 4 Các ngươi đã chứng kiến việc Ta làm trên dân Ai Cập, thể nào Ta đã cõng các ngươi trên cánh đại bàng và đem các ngươi đến với Ta.
\v 5 Vậy bây giờ, nếu các ngươi thuận phục lắng nghe tiếng Ta và giữ giao ước Ta, các ngươi sẽ là tài sản đặc biệt của Ta từ giữa các dân, vì cả thế gian thuộc về Ta.
\v 6 Các ngươi sẽ là vương quốc của thầy tế lễ và là quốc gia thánh của Ta. Đây là những lời ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 7 Vậy Môi-se xuống núi và triệu tập các trưởng lão trong dân chúng. Ông trình bày với họ mọi lời mà Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 8 Cả dân sự đồng thanh trả lời và nói: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều Đức Giê-hô-va phán.” Sau đó Môi-se trình cho Đức Giê-hô-va lời của dân sự.
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta sẽ ngự trong đám mây đen đến cùng ngươi đặng chúng có thể nghe khi Ta phán cùng ngươi và tin ngươi mãi mãi.” Vậy Môi-se thuật lại lời của dân sự cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hãy đến gặp dân sự. Hôm nay và ngày mai các ngươi phải biệt riêng cho Ta, hãy bảo chúng giặt sạch quần áo.
\v 11 Hãy sẵn sàng cho ngày thứ ba, vì trong ngày thứ ba, Ta, Giê-hô-va, sẽ ngự xuống núi Si-nai.
\s5
\v 12 Ngươi phải định ranh giới quanh núi cho dân sự. Hãy nói với chúng, Quý vị phải cẩn thận, đừng lên núi hay đụng vào ranh giới. Ai đụng đến núi thì chắc chắn sẽ chết.
\v 13 Không ai được đụng đến người đó. Bằng không, ai làm vậy chắc chắn sẽ bị ném đá hoặc bắn chết bằng cung tên. Dù đó là người hay thú vật, hễ ai đụng vào sẽ chết. Khi nào có tiếng kèn thổi dài, chúng có thể đi lên núi.”
\s5
\v 14 Vậy Môi-se xuống núi gặp dân sự. Ông biệt riêng họ ra thánh cho Đức Giê-hô-va, và họ giặt quần áo mình.
\v 15 Ông nói với họ: “Hãy sẵn sàng cho ngày thứ ba; đừng lại gần vợ quý vị.”
\s5
\v 16 Sáng thứ ba, có sấm sét, chớp nhoáng và đám mây dày trên núi, cùng tiếng kèn rất dài. Cả dân sự trong trại đều run sợ.
\v 17 Môi-se dẫn dân sự ra khỏi trại để gặp Đức Chúa Trời, họ đứng ở chân núi.
\v 18 Khói bao phủ Núi Si-nai hoàn toàn vì Đức Giê-hô-va ngự trong lửa và khói. Khói bay lên như khói từ lò, và núi đều rung động dữ dội.
\s5
\v 19 Khi tiếng kèn thổi to hơn và to hơn, Môi-se nói, và Đức Chúa Trời cất tiếng trả lời ông.
\v 20 Đức Giê-hô-va ngự xuống Núi Si-nai, trên đỉnh núi, Ngài gọi Môi-se lên đỉnh. Vậy Môi-se đi lên đó.
\v 21 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy xuống và cảnh báo chúng chớ vượt qua ranh giới để nhìn Ta, kẻo nhiều người trong chúng sẽ bị diệt vong.
\v 22 Hãy bảo các thầy tế lễ nào đến gần Ta phải biệt riêng mình chuẩn bị chính mình cho sự hiện đến của Ta đặng Ta không giáng phạt họ.”
\s5
\v 23 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va: “Dân sự không thể lên núi, vì Ngài đã ra lệnh cho chúng con: Hãy đặt ranh giới quanh núi và biệt riêng núi ấy cho Đức Giê-hô-va.’”
\v 24 Đức Giê-hô-va trả lời ông: “Hãy đi, xuống núi, và dẫn A-rôn lên với ngươi, nhưng đừng để thầy tế lễ và dân sự vượt qua lằn ranh để đến với Ta, nếu không Ta sẽ đánh phạt chúng.”
\v 25 Vậy Môi-se xuống núi gặp dân sự và nói với họ.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Đức Chúa Trời phán những lời này:
\v 2 “Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ.
\v 3 Ngươi chớ có các thần khác ở trước mặt Ta.
\s5
\v 4 Ngươi chớ làm hình tượng cho mình hoặc hình tượng của vật gì ở trên trời cao kia, hoặc bên dưới đất, hoặc dưới nước.
\v 5 Ngươi chớ quỳ lạy trước chúng hay thờ lạy chúng, vì Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đức Chúa Trời đố kỵ. Ta sẽ trừng phạt tội gian ác của tổ tiên bằng sự giáng phạt trên con cháu, từ đời thứ ba đến đời thứ tư của những kẻ nào ghét Ta.
\v 6 Nhưng Ta sẽ tỏ lòng thành tín theo thỏa ước cho hàng ngàn người nào yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta.
\s5
\v 7 Ngươi chớ lấy danh Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, mà làm chơi, vì Ta sẽ không xem kẻ nào lấy danh Ta mà làm chơi là vô tội.
\s5
\v 8 Hãy nhớ ngày Sa-bát và biệt riêng cho Ta.
\v 9 Ngươi phải lao động và làm hết mọi công việc mình trong sáu ngày.
\v 10 Nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát dành cho Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi. Trong ngày đó, ngươi. Con trai, con gái, tớ trai, tớ gái, gia súc, hay khách ngoại quốc ở trong nhà ngươi, chớ làm việc chi cả.
\v 11 Vì trong sáu ngày Ta, Giê-hô-va, đã dựng nên trời, đất, và biển, cùng mọi vật ở trong đó, và nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Vậy Ta, Giê-hô-va, đã ban phước cho ngày Sa-bát và dành riêng ngày đó cho Ta.
\s5
\v 12 Hãy tôn kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất mà Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, sẽ ban cho.
\v 13 Ngươi chớ giết người.
\v 14 Ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
\s5
\v 15 Ngươi chớ trộm cướp.
\v 16 Ngươi chớ làm chứng dối về kẻ lân cận ngươi.
\v 17 Ngươi chớ thèm muốn nhà của láng giềng ngươi; ngươi chớ tham vợ của láng giềng ngươi, tớ trai, tớ gái, bò, lừa, hay vật chi thuộc về láng giềng ngươi.”
\s5
\v 18 Cả dân sự thấy sấm sét và chớp nhoáng, họ nghe tiếng kèn thổi, và núi bốc khói. Khi dân sự thấy điều đó, họ run sợ và đứng xa xa.
\v 19 Họ nói với Môi-se: “Hãy nói với chúng tôi, chúng tôi sẽ nghe; nhưng đừng để Đức Chúa Trời phán cùng chúng tôi, nếu không chúng tôi ắt sẽ chết.”
\v 20 Môi-se nói cùng dân sự: “Chớ sợ hãi, vì Đức Chúa Trời đã ngự đến đặng thử quý vị hầu cho quý vị tôn kính Ngài và không phạm tội.”
\v 21 Vậy dân sự đứng xa xa, và Môi-se đến gần đám mây đen nơi Đức Chúa Trời đang ngự.
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Đây là điều ngươi phải nói cùng dân Y-sơ-ra-ên: Chính các ngươi đã thấy Ta phán với các ngươi từ trời.
\v 23 Các ngươi chớ làm cho mình thần nào khác ngoài Ta, dù là thần bằng bạc hay thần bằng vàng.
\s5
\v 24 Các ngươi phải làm một bàn thờ bằng đất nung cho Ta, các ngươi phải dâng tế lễ thiêu, tế lễ cầu an, cừu, dê và bò trên bàn thờ ấy. Bất cứ nơi nào Ta làm cho tên Ta được tôn kính, Ta sẽ đến và ban phước cho các ngươi.
\v 25 Nếu các ngươi thiết lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì đừng dùng đá đẽo, vì các ngươi sẽ làm ô uế bàn thờ khi dùng dụng cụ để đẽo đá.
\v 26 Ngươi chớ đi lên bàn thờ bằng bực thang, để sự lõa lồ của ngươi sẽ không bị lộ.'"
\s5
\c 21
\p
\v 1 Bây giờ, đây là những luật lệ ngươi phải truyền cho dân sự:
\s5
\v 2 “Nếu ngươi mua một nô lệ người Hê-bơ-rơ, nó sẽ phục vụ trong sáu năm, đến năm thứ bảy, nó sẽ được tự do ra đi mà không cần phải đóng tiền chuộc.
\v 3 Nếu một mình nó về nhà ngươi, thì một mình nó sẽ được tự do; nếu nó đã lấy vợ, thì vợ sẽ ra đi với nó.
\v 4 Nếu chủ cưới vợ cho nó, và nàng sanh cho nó con trai hay con gái, thì vợ và con cái nàng sẽ thuộc về chủ nàng, còn một mình nó sẽ được tự do.
\s5
\v 5 Nhưng nếu nó tuyên bố: “Tôi yêu chủ tôi, vợ tôi, và các con tôi; tôi không muốn tự do,”
\v 6 thì chủ phải dẫn nó đến trước mặt Đức Chúa Trời. Chủ dẫn nó đến trước cánh cửa hoặc khung cửa, lấy dùi xỏ tai nó. Như vậy, nô lệ ấy sẽ hầu hạ chủ suốt đời.
\s5
\v 7 Nếu ai bán con gái mình làm tỳ nữ, nàng sẽ không được tự do như các nam nô lệ.
\v 8 Nếu nàng không làm hài lòng chủ mình, là người đã chọn nàng để hầu hạ, thì chủ phải để nàng được chuộc lại. Chủ không có quyền bán nàng cho người ngoại quốc. Chủ không có quyền đó, vì người đã đối xử bất công với nàng.
\s5
\v 9 Nếu chủ gả nàng cho con trai mình, người phải đối xử với nàng y như là con gái mình.
\v 10 Nếu chủ cưới người khác, thì không được cắt giảm thức ăn, quần áo, hoặc quyền phối ngẫu của nàng.
\v 11 Nhưng nếu chủ không làm cho nàng ba điều này, nàng có thể ra đi tự do mà không phải trả tiền.
\s5
\v 12 Ai đánh chết người, chắc chắn phải bị xử tử.
\v 13 Nếu người đó không cố ý, nhưng vô tình làm thiệt mạng người khác, Ta sẽ bố trí một nơi để người có thể lẩn trốn.
\v 14 Nếu ai toan tính làm hại rồi giết đi, ngươi phải bắt nó đem đi xử tử, dù nó trốn tại bàn thờ của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 15 Ai đánh cha hay mẹ mình, phải bị xử tử.
\v 16 Ai bắt cóc người ta và bán đi, hoặc nạn nhân bị bắt cóc được phát hiện đang khi bị giam giữ, thì kẻ bắt cóc ấy sẽ bị xử tử.
\v 17 Ai mắng cha hay mẹ mình phải bị xử tử.
\s5
\v 18 Nếu hai người đánh lộn, người này lấy đá hoặc dùng tay đánh người kia mà không làm người đó chết, nhưng nằm liệt giường;
\v 19 vậy nếu nạn nhân phục hồi và có thể chống gậy đi đứng, người đánh phải trả tiền chữa trị thiệt hại nạn nhân suốt thời gian dưỡng bệnh; người cũng phải thanh toán cho đến khi người kia hoàn toàn bình phục. Tuy nhiên người đánh sẽ không mắc tội sát nhân.
\s5
\v 20 Nếu ai lấy gậy đánh tôi trai tớ gái mình, và nếu nô lệ đó chết vì cú đánh, thì chủ phải bị trừng phạt.
\v 21 Tuy nhiên, nếu nô lệ còn sống được một hay hai ngày, chủ sẽ không bị trừng phạt, vì người đã mua nô lệ đó.
\s5
\v 22 Nếu hai người đánh nhau, trúng một phụ nữ có thai đến nỗi khiến sẩy thai nhưng không gây ra thương tích cho nàng, thì người mắc lỗi phải bị phạt, nếu chồng nàng đòi nộp phạt, thì người gây sự phải bồi thường theo phán quyết của thẩm phán.
\v 23 Nhưng nếu gây thiệt hại nghiêm trọng, thì mạng đền mạng,
\v 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân,
\v 25 bỏng đền bỏng, thương tích đền thương tích, hoặc bầm đền bầm.
\s5
\v 26 Nếu ai đánh trúng mắt của tôi trai tớ gái mình và gây mù mắt, thì chủ phải thả tự do cho người đó để bồi thường cho mắt của người.
\v 27 Nếu ai đánh gãy răng tôi trai tớ gái mình thì phải thả tự do cho người đó để đền răng bị gãy.
\s5
\v 28 Nếu một con bò đực húc chết một người nam hay người nữ, con bò đó phải bị ném đá, các ngươi không được ăn thịt của nó; tuy nhiên chủ con bò sẽ được tha bổng.
\v 29 Nhưng nếu con bò từng có tật húc người khi trước, chủ bò đã bị cảnh cáo nhưng không quản lý bò, và con bò húc chết một người nam hay người nữ, thì con bò đó phải bị ném đá, chủ nó cũng phải bị ném đá cho tới chết.
\v 30 Nếu người ta yêu cầu người phải trả tiền để chuộc mạng sống mình, thì người phải trả y như yêu cầu đó.
\s5
\v 31 Nếu con bò húc con trai hay con gái của người khác, chủ của nó phải tuân theo luật lệ này.
\v 32 Nếu con bò húc một tôi trai hay tớ gái, thì con bò phải trả ba mươi miếng bạc, rồi ném đá con bò ấy.
\s5
\v 33 Nếu ai mở miệng giếng mà không đậy nắp, hoặc nếu ai đào giếng mà không đậy lại, thì con bò hay con lừa rơi xuống đó,
\v 34 chủ giếng phải bồi thường thiệt hại. Người phải trả tiền cho chủ của con vật bị chết, và con thú chết đó sẽ trở thành vật của người.
\s5
\v 35 Nếu bò của người này húc bò của người khác làm nó chết, họ phải bán con bò còn sống và chia đôi số tiền, họ cũng phải chia con bò chết.
\v 36 Nhưng nếu xác định là con bò từng có thói quen húc trong quá khứ, và chủ nó không có trách nhiệm giữ nó, người phải đền con bò của mình cho người kia, và giữ lại con vật bị chết.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Nếu ai trộm một con bò hay một con chiên rồi giết nó hoặc bán nó, kẻ trộm phải đền năm con bò cho một con bò bị ăn cắp, và bốn con chiên cho một con chiên bị ăn cắp.
\v 2 Nếu tên trộm bị bắt quả tang khi đang đột nhập, và nếu nó bị đánh chết, thì người đánh nó sẽ không phạm tội sát nhân.
\v 3 Nhưng nếu mặt trời đã mọc trước khi tên trộm đột nhập, người giết kẻ trộm sẽ mang tội sát nhân. Kẻ trộm phải bồi thường. Nếu tên trộm không có gì để bồi thường, hãy bán nó làm nô lệ để bồi thường cho việc trộm cắp.
\v 4 Nếu con vật ăn cắp còn sống trong tay kẻ trộm, dù đó là bò, lừa, hay chiên, tên trộm phải đền gấp đôi.
\s5
\v 5 Nếu ai thả gia súc mình vào ruộng hay vườn nho và không quản lý chúng, để chúng đi lạc qua ruộng của người khác và gây thiệt hại, người đó phải bồi thường bằng những hoa quả tốt nhất của ruộng mình và vụ mùa tốt nhất của vườn nho mình.
\s5
\v 6 Nếu lửa nổi lên rồi lan sang cỏ gai, cháy lan ra lúa mới gặt, hoặc lúa chưa gặt, hoặc cháy cả đám ruộng, thì người đốt lửa phải bồi thường thiệt hại.
\s5
\v 7 Nếu ai đưa tiền hoặc đồ vật mình cho láng giềng giữ hộ, nếu xảy ra trộm cắp trong nhà của người giữ, và nếu tên trộm bị bắt, nó phải bồi thường gấp đôi.
\v 8 Nhưng nếu không bắt được trộm, chủ nhà phải đến trình diện các quan tòa để xác định rằng mình không rớ tay vào tài sản của láng giềng mình.
\v 9 Nếu xảy ra vấn đề tranh cãi, dù là tranh cãi về bò, lừa, chiên, quần áo, hay bất cứ vật nào thất lạc mà một bên nói rằng: “Vật này thuộc về tôi,” thì hai bên phải khiếu nại trước mặt quan tòa. Ai bị quan tòa định tội sẽ phải bồi thường gấp đôi cho láng giềng mình.
\s5
\v 10 Nếu ai nhờ láng giềng mình giữ hộ một con lừa, bò, chiên, hoặc bất cứ con vật nào, và nếu con vật đó chết, bị thương hoặc bị trộm mà không ai hay biết,
\v 11 thì hai bên phải thề với Đức Giê-hô-va, rằng người ấy không nhúng tay vào tài sản của láng giềng mình. Chủ nhân phải chấp nhận lời thề đó, và người kia sẽ không phải bồi thường.
\v 12 Nhưng nếu con vật đã bị trộm, thì người phải bồi thường cho chủ con vật.
\v 13 Nếu một con vật bị thú dữ xé xác, người giữ phải đem con vật về làm bằng chứng. Người sẽ không phải bồi thường cho con vật bị xé xác.
\s5
\v 14 Nếu ai mượn một con vật nào từ láng giềng mình và con vật đó bị thương hay chết khi không có mặt người chủ, người mượn sẽ phải bồi thường.
\v 15 Nhưng nếu có mặt chủ của nó tại đó, người mượn sẽ không phải bồi thường; nếu con vật được cho mướn, người mướn phải thanh toán chi phí thuê mướn.
\s5
\v 16 Nếu người nam nào dụ dỗ một trinh nữ chưa đính hôn, nếu ngủ với nàng, thì người đó phải cưới nàng làm vợ bằng cách nộp sính lễ.
\v 17 Nếu cha nàng hoàn toàn từ chối chịu gả nàng, người đó phải trả tiền tương đương với sính lễ cưới trinh nữ.
\s5
\v 18 Ngươi chớ để phù thủy nào sống.
\v 19 Ai ngủ với thú vật sẽ bị xử tử.
\s5
\v 20 Ai dâng của lễ cho bất cứ thần nào ngoài Đức Giê-hô-va sẽ bị diệt hoàn toàn.
\v 21 Chớ bạc đãi người ngoại quốc nào hoặc áp bức người, vì ngươi từng là dân ngoại quốc trong xứ Ai Cập.
\s5
\v 22 gươi chớ ngược đãi góa phụ hoặc trẻ mồ côi cha.
\v 23 Nếu ngươi khiến họ đau khổ, và nếu họ kêu cầu Ta, là Đức Giê-hô-va, chắc chắn Ta sẽ nghe tiếng kêu cầu của họ.
\v 24 Ta sẽ nổi giận bừng bừng, Ta sẽ dùng gươm mà giết ngươi; vợ ngươi sẽ thành góa bụa, con cái ngươi sẽ mồ côi cha.
\s5
\v 25 Nếu ngươi cho một người nào trong dân Ta, là người nghèo khó, được vay mượn, thì chớ đối xử với họ như người cho vay tiền và cũng đừng lấy lãi.
\v 26 Nếu ngươi lấy áo quần của láng giềng mình làm của nợ, thì phải trả lại cho người trước khi hoàng hôn,
\v 27 vì đó là đồ mặc duy nhất của người; đó là áo quần để người che thân. Người sẽ mặc gì để ngủ? Nếu người kêu cầu Ta, Ta sẽ nghe tiếng người, vì Ta hay thương xót.
\s5
\v 28 Chớ báng bổ Ta, là Đức Chúa Trời, cũng chớ rủa người cai trị dân ngươi.
\s5
\v 29 Ngươi chớ chậm trễ dâng hoa quả mùa vụ hoặc rượu nho ngươi thu hoạch. Hãy dâng cho Ta con trai đầu lòng của ngươi.
\v 30 Ngươi cũng hãy dâng cho Ta con đầu lòng của bò và chiên ngươi. Vì chúng có thể ở với mẹ chúng trong bảy ngày, nhưng ngày thứ tám là ngày ngươi phải đem dâng cho Ta.
\v 31 Các ngươi sẽ là dân thánh của Ta. Vậy ngươi chớ ăn thịt con vật nào bị thú dữ cắn xé ngoài đồng. Trái lại, hãy quăng nó cho chó ăn.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Ngươi chớ phao tin đồn nhảm. Chớ cùng kẻ gian ác mà làm chứng dối.
\v 2 Chớ hùa theo đám đông mà làm ác, khi ngươi làm nhân chứng cũng chớ hùa theo đám đông mà xuyên tạc công lý.
\v 3 Chớ thiên vị người nghèo khi họ kiện tụng.
\s5
\v 4 Nếu ngươi thấy con bò hay lừa của kẻ thù mình đi lạc, hãy dẫn nó về cho người ấy.
\v 5 Nếu ngươi thấy con lừa của kẻ ghét mình ngã quỵ xuống đất khi chở nặng thì chớ làm ngơ. Hãy giúp người ấy cùng con lừa.
\s5
\v 6 Chớ xuyên tạc công lý về phía người nghèo khi họ kiện tụng.
\v 7 Chớ thông đồng với kẻ khác mà vu khống, cũng chớ giết người vô tội hay người công bình, vì Ta sẽ không tha cho kẻ gian ác.
\v 8 Chớ bao giờ nhận hối lộ, vì của hối lộ làm mù những kẻ sáng mắt, và xuyên tạc lời nói của người thành thật.
\v 9 Ngươi chớ áp bức người ngoại quốc, vì ngươi biết thân phận của người ngoại quốc, ngươi đã từng là khách ngoại quốc trong xứ Ai Cập.
\s5
\v 10 Hãy gieo giống trong sáu năm và thâu gặt hoa lợi.
\v 11 Nhưng đến năm thứ bảy thì chớ cày xới và trồng trọt, để người nghèo trong dân ngươi thu nhặt mà ăn. Những gì họ bỏ lại, thú đồng sẽ ăn. Hãy làm tương tự với vườn nho và vườn cây ô-liu ngươi.
\s5
\v 12 Ngươi hãy làm việc mình trong sáu ngày, nhưng đến ngày thứ bảy ngươi phải nghỉ ngơi. Như vậy để bò và lừa ngươi được nghỉ ngơi, và con trai của nữ tỳ ngươi và bất kỳ khách ngoại quốc nào cũng được nghỉ ngơi.
\v 13 Hãy chú ý mọi lời Ta đã phán cùng ngươi. Chớ đề cập danh các các thần khác, miệng ngươi cũng chớ xưng danh các thần đó.
\s5
\v 14 Ngươi hãy giữ kỳ lễ cho ta một năm ba lần.
\v 15 Hãy giữ Lễ Bánh không men. Như Ta đã truyền, ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào đúng thời điểm ấn định trong tháng A-bíp, ngươi sẽ ra mắt Ta. Đây là tháng mà ngươi đã ra khỏi Ai Cập. Nhưng chớ đi tay không đến ra mắt Ta.
\s5
\v 16 Hãy giữ Lễ Mùa gặt, là lễ hoa quả đầu mùa do sức lao động ngươi mà ra và thời gian ngươi gieo giống ngoài đồng. Cũng hãy giữ Lễ Thu hoạch vào cuối năm, là lúc ngươi thu hoạch nông sản mình.
\v 17 Tất cả đàn ông phải ra mắt Ta, là Đức Giê-hô-va, mỗi năm ba lần.
\s5
\v 18 Chớ dâng huyết con sinh tế cho Ta chung với bánh có men. Chớ để lại mỡ của con sinh tế dâng cho Ta trọn đêm cho đến sáng.
\v 19 Hãy đem những hoa quả đầu mùa tốt nhất của ngươi vào nhà Ta, là nhà của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Ngươi chớ nấu dê con trong sữa mẹ nó.
\s5
\v 20 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi đặng bảo vệ ngươi dọc đường, và đem ngươi đến nơi mà Ta đã sắm sẵn.
\v 21 Hãy chú ý và vâng lời thiên sứ đó. Chớ khiêu khích người, vì người sẽ không bỏ qua sự vi phạm ngươi. Danh Ta ở cùng người.
\v 22 Nếu ngươi thật sự nghe lời người và làm theo mọi điều Ta truyền, thì Ta sẽ là kẻ thù của quân thù ngươi và là địch thủ của đối thủ ngươi.
\s5
\v 23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi và đem ngươi đến xứ của dân Am-môn, dân Hê-tít, dân Phê-ri-sít, dân Ca-na-an, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Ta sẽ hủy diệt chúng.
\v 24 Ngươi chớ quỳ lạy trước các thần của chúng, tôn thờ, hoặc bắt chước chúng. Trái lại, hãy tiêu hủy chúng hoàn toàn và đập nát các trụ thờ của chúng.
\v 25 Hãy thờ phượng Ta, là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Nếu ngươi làm theo, Ta sẽ ban phước cho bánh và nước uống của ngươi. Ta sẽ loại trừ bệnh tật khỏi giữa ngươi.
\s5
\v 26 Sẽ không có người nữ nào hiếm muộn hoặc bị sẩy thai trong xứ ngươi. Ta sẽ cho ngươi được sống lâu.
\v 27 Ta sẽ giáng sự kinh sợ trên dân trong xứ mà ngươi sẽ đến. Ta sẽ giết mọi dân ngươi gặp. Ta sẽ khiến hết thảy kẻ thù ngươi sợ hãi chạy trốn khỏi ngươi.
\v 28 Ta sẽ sai ong bắp cày bay trước ngươi đặng đuổi dân Hê-vít, dân Ca-na-an, và dân Hê-tít khỏi trước mặt ngươi.
\v 29 Ta sẽ không đuổi chúng khuất mắt ngươi trong một năm, kẻo xứ đó hoang vu và thú hoang sanh sôi quá nhiều đến nỗi làm hại ngươi.
\s5
\v 30 Trái lại, Ta sẽ dần dần đuổi chúng khuất mắt ngươi cho đến khi ngươi sinh sản nhiều và đầy khắp đất.
\v 31 Ta sẽ ấn định biên giới ngươi từ biển Sậy đến biển Phi-li-tin, và từ đồng vắng đến Sông Ơ-phơ-rát. Ta sẽ cho ngươi chiến thắng các dân trong xứ. Chính ngươi sẽ đuổi chúng khuất mắt ngươi.
\v 32 Ngươi chớ lập giao ước với chúng hoặc với các thần của chúng.
\v 33 Chúng không được sống trong xứ ngươi, kẻo chúng khiến ngươi phạm tội đối cùng Ta. Nếu ngươi thờ thần của chúng, thì đây chắc chắn sẽ là một cái bẫy cho ngươi.”
\s5
\c 24
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Ngươi, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, và bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên hãy lên núi gặp Ta và thờ phượng Ta từ đằng xa.
\v 2 Chỉ một mình Môi-se được đến gần Ta. Những người khác không được đến gần, kể cả những người đi cùng với ông.”
\s5
\v 3 Môi-se đến gặp dân sự và thuật lại cho họ về mọi lời và sắc lệnh của Đức Giê-hô-va. Cả dân sự đều đồng thanh trả lời và nói rằng: “Chúng tôi sẽ làm y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.”
\v 4 Vậy Môi-se ghi lại mọi lời của Đức Giê-hô-va. Sáng sớm hôm sau, Môi-se dựng một bàn thờ ở chân núi và xếp mười hai trụ đá, tượng trưng cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 5 Ông sai một số nam thanh niên người Y-sơ-ra-ên dâng những của lễ thiêu và của lễ thù ân bằng bò đực cho Đức Giê-hô-va.
\v 6 Môi-se lấy một nửa huyết và đựng trong các chậu; một nửa còn lại ông rảy lên bàn thờ.
\s5
\v 7 Ông lấy Sách Giao ước và đọc lớn tiếng cho dân sự nghe. Họ nói: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều y như Đức Giê-hô-va đã phán. Chúng tôi sẽ vâng phục.”
\v 8 Sau đó, Môi-se lấy huyết và rảy lên dân sự. Ông nói: “Đây là huyết của giao ước mà Đức Giê-hô-va đã lập với quý vị qua việc ban cho quý vị lời hứa cùng với mọi lời này.”
\s5
\v 9 Nói rồi, Môi-se, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, và bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên lên núi.
\v 10 Họ nhìn thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có một mặt lát làm bằng đá sa-phia, trong suốt như trời xanh.
\v 11 Đức Chúa Trời không giận dữ ra tay trên các lãnh đạo người Y-sơ-ra-ên. Họ thấy Đức Chúa Trời, và họ ăn uống tại đó.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy lên núi gặp Ta và ở lại đó. Ta sẽ ban cho ngươi các bảng đá và luật pháp cùng các điều răn mà Ta đã viết, đặng ngươi dạy lại cho dân sự.”
\v 13 Vậy Môi-se cùng trợ lý mình là Giô-suê đi lên núi của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Môi-se nói với các trưởng lão: “Quý vị hãy ở lại đây và chờ chúng tôi trở về. A-rôn và Hu-rơ ở với quý vị. Nếu ai có tranh cãi gì, hãy để người gặp họ.”
\v 15 Vậy Môi-se lên núi, mây bao phủ núi.
\s5
\v 16 Vinh quang của Đức Giê-hô-va ngự trên Núi Si-nai, và mây che phủ núi trong sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, Ngài gọi Môi-se từ bên trong đám mây.
\v 17 Vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra như lửa cháy trên đỉnh núi trước mắt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 18 Môi-se bước vào trong đám mây và đi lên núi. Ông ở trên núi trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy nói dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta một của lễ, ai cảm thấy được thúc đẩy sẵn lòng dâng thì ngươi hãy nhận lấy.
\s5
\v 3 Đây là những của lễ ngươi phải nhận từ dân sự: vàng, bạc, đồng,
\v 4 sợi xanh, sợi tím, và đỏ tươi cùng vải lanh tốt; lông dê;
\v 5 da chiên nhuộm đỏ và da cá nước; gỗ keo;
\v 6 dầu để thắp đèn nơi thánh, hương liệu dùng làm dầu xức và hương thơm,
\v 7 mã não và những thứ đá ngọc khác để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực.
\s5
\v 8 Hãy nói họ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự giữa họ.
\v 9 Hãy dựng đền tạm và các vật dụng trong đó y như Ta sẽ chỉ ngươi.
\s5
\v 10 Họ sẽ làm một cái hòm bằng gỗ keo dài hai cu-bít rưỡi, rộng một cu-bít rưỡi, và cao một cu-bít rưỡi.
\v 11 Dùng vàng ròng bọc bên ngoài và bên trong hòm, làm một đường viền bằng vàng.
\s5
\v 12 Đúc bốn khoen vàng và gắn vào bốn chân hòm, hai khoen bên này và hai khoen bên kia.
\v 13 Ngươi hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ keo và bọc vàng lại.
\v 14 Xỏ các cây đòn vào các khoen ở hai bên hòm để khiêng hòm.
\s5
\v 15 Cây đòn phải được xỏ cố định vào trong khoen; chớ rút ra.
\v 16 Ngươi hãy để trong hòm các bảng giao ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
\v 17 Hãy làm một nắp thi ân bằng vàng ròng, dài hai cu-bít rưỡi, và rộng một cu-bít rưỡi.
\v 18 Làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng để ở hai đầu nắp.
\s5
\v 19 Một chê-ru-bim ở đầu bên này và một chê-ru-bim để ở đầu bên kia. Cả hai dính liền với nắp thi ân.
\v 20 Các chê-ru-bim có cánh giương lên và phủ nắp thi ân. Hai chê-ru-bim đối mặt nhau và hướng về giữa nắp thi ân.
\v 21 Hãy đậy nắp thi ân lên hòm, và đặt vào trong đó các bản giao ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
\s5
\v 22 Ta sẽ gặp ngươi tại hòm. Ta sẽ nói chuyện với ngươi từ trên nắp thi ân. Từ giữa hai chê-ru-bim trên hòm giao ước, Ta truyền cho ngươi mọi mạng lệnh dành cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 23 Hãy đóng một cái bàn bằng gỗ keo, dài hai cu-bít, rộng một cu-bít, và cao một cu-bít rưỡi.
\v 24 Lấy vàng ròng bọc bàn và làm một cái viền xung quanh bàn.
\s5
\v 25 Làm một khung rộng một bàn tay và viền vàng quanh khung.
\v 26 Hãy làm bốn khoen vàng và gắn vào bốn góc ở bốn chân bàn.
\v 27 Gắn khoen vào khung để xỏ đòn khiêng.
\s5
\v 28 Hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ keo và bọc vàng.
\v 29 Ngươi hãy làm dĩa, muỗng, bình và chén dùng cho việc dâng của lễ quán. Những thứ này phải được làm bằng vàng ròng.
\v 30 Phải thường xuyên dâng bánh trần thiết trên bàn trước mặt Ta.
\s5
\v 31 Ngươi hãy làm một cây đèn bằng vàng ròng dát mỏng có đế và thân. Đài đèn, bầu và hoa phải dính vào thân đèn.
\v 32 nhánh tẻ ra hai bên ba nhánh bên này, và ba nhánh bên kia.
\s5
\v 33 Nhánh thứ nhất có ba đài đèn hình hoa hạnh nhân, với bầu và cánh hoa, và ba đài đèn ở nhánh kia cũng có đài đèn hình hoa hạnh nhân, với bầu và cánh hoa. Tất cả sáu nhánh tẻ ra hai bên cây đèn phải giống nhau.
\v 34 Ngay trên chân đèn, ở trụ giữa, có bốn đài hình hoa hạnh nhân, với bầu và cánh hoa.
\s5
\v 35 Dưới cặp nhánh thứ nhất có một cái bầu dính vào thân đèn, và dưới cặp nhánh thứ nhì cũng có một cái bầu dính vào thân đèn. Cặp nhánh thứ ba cũng có bầu tương tự và dính vào thân. Sáu nhánh tẻ ra từ cây đèn phải giống nhau.
\v 36 Các bầu và nhánh phải dính vào thân, tất cả làm bằng vàng ròng dát mỏng.
\s5
\v 37 Ngươi hãy làm chân đèn và bảy ngọn đèn, đặt lên cây đèn để thắp sáng.
\v 38 Kẹp và khay làm bằng vàng ròng.
\v 39 Hãy lấy một ta-lâng vàng ròng làm cây đèn và các phụ tùng của nó.
\v 40 Ngươi hãy làm y theo mẫu mà Ta chỉ cho ngươi trên núi.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Ngươi hãy làm một đền tạm với mười tấm màn dệt bằng vải gai mịn và chỉ xanh dương, tím và đỏ sậm có trang trí hình chê-ru-bim. Thợ thủ công lành nghề sẽ làm công việc này.
\v 2 Mỗi màn dài hai mươi tám cu-bít, rộng bốn cu-bít. Tất cả các màn phải đồng kích thước.
\v 3 Nối năm tấm màn lại với nhau, và năm tấm màn kia cũng vậy.
\s5
\v 4 Làm các vòng bằng chỉ xanh dương dọc theo biên màn ngoài cùng của bộ thứ nhất, và làm tương tự như vậy dọc theo biên màn ngoài cùng của bộ thứ nhì.
\v 5 Ngươi hãy làm năm mươi vòng trên tấm màn thứ nhất, và năm mươi vòng trên mép màn của bộ thứ nhì. Các vòng sẽ được đặt đối nhau.
\v 6 Ngươi hãy làm năm mươi cái móc bằng vàng và nối các tấm màn để tạo thành một miếng.
\s5
\v 7 Lấy lông dê làm mười một tấm màn để làm mái che đền tạm.
\v 8 Mỗi tấm dài ba mươi cu-bít, và rộng bốn cu-bít. Tất cả mười một tấm đều có đồng kích thước.
\v 9 Nối năm màn này với nhau, cũng nối sáu màn còn lại luôn. Gấp đôi tấm thứ sáu ở phía trước lều.
\s5
\v 10 Ngươi hãy làm năm mươi vòng ở đường biên của tấm màn cuối trong bộ thứ nhất, và năm mươi vòng ở đường biên của tấm màn cuối trong bộ thứ nhì.
\v 11 Làm năm mươi cái móc bằng đồng và gắn vào vòng. Sau đó kết tấm đậy mái lều lại thành một miếng.
\s5
\v 12 Nửa tấm còn lại, là phần dư từ các tấm màn của lều, sẽ được phủ ở phía sau đền tạm.
\v 13 Một cu-bít màn ở bên này, và một cu-bít màn ở bên kia đây là phần chiều dài của tấm màn dư được phủ dọc hai bên đền tạm.
\v 14 Hãy làm một tấm phủ đền tạm bằng da chiên nhuộm đỏ, và một tấm bằng da mịn phủ bên trên.
\s5
\v 15 Hãy làm các tấm ván dựng đứng bằng gỗ keo cho đền tạm.
\v 16 Mỗi tấm ván dài mười cu-bít và rộng một cu-bít rưỡi.
\v 17 Mỗi tấm có hai lỗ mộng để ghép lại. Tất cả tấm ván của đền tạm phải được làm y như vậy.
\v 18 Khi làm tấm ván cho đền tạm, hãy làm hai mươi tấm cho mặt phía nam.
\s5
\v 19 Làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván. Dưới tấm ván thứ nhất có hai đế làm bệ, và dưới mỗi tấm ván kia cũng có hai đế làm bệ.
\v 20 Ở mặt thứ nhì của đền tạm, về phía bắc, hãy làm hai mươi tấm ván
\v 21 và bốn mươi đế bạc. Dưới tấm ván thứ nhất phải có hai đế và cứ dưới mỗi tấm ván thì có hai đế.
\s5
\v 22 Ở phía sau đền tạm về hướng tây, hãy làm sáu tấm ván.
\v 23 Làm hai tấm ván cho các góc sau đền tạm.
\v 24 Các tấm ván này không dính vào đáy, nhưng được ghép ở phía trên bằng một cái khoen. Cả hai góc sau phải được làm giống như vậy.
\v 25 Hãy làm tám tấm ván có đế bạc. Tổng cộng là mười sáu đế, dưới tấm thứ nhất có hai đế, tấm thứ hai cũng có hai đế, mỗi tấm đều y như vậy.
\s5
\v 26 Hãy làm các thanh ngang bằng gỗ keo năm thanh cho các tấm ván ở bên này đền tạm,
\v 27 năm thanh ngang cho các tấm ván ở bên kia đền tạm, và năm thanh ngang cho các tấm ván ở phía sau đền tạm về hướng tây.
\v 28 Thanh ngang giữa các tấm ván sẽ chạy dài từ đầu này đến đầu kia.
\s5
\v 29 Lấy vàng bọc các tấm ván. Làm các khoen vàng để giữ các thanh ngang, bọc các thanh này bằng vàng.
\v 30 Ngươi hãy lập đền tạm theo kiểu mẫu Ta chỉ cho ngươi trên núi.
\s5
\v 31 Làm một tấm màn bằng chỉ xanh dương, tím, đỏ thắm và bằng vải gai mịn, rồi giao cho một thợ thủ công lành nghề trang trí hình các chê-ru-bim lên đó.
\v 32 Treo tấm màn đó trên bốn cột gỗ keo được bọc vàng. Các trụ này có các móc vàng được đặt trên bốn đế bạc.
\v 33 Treo tấm màn vào các móc, rồi đem hòm giao ước vào đó. Tấm màn này sẽ phân chia nơi thánh và nơi chí thánh.
\s5
\v 34 Đậy nắp thi ân lên hòm giao ước, là hòm được đặt trong nơi chí thánh.
\v 35 Đặt cái bàn bên ngoài tấm màn. Đặt cây đèn đối diện bàn về phía nam của đền tạm. Phải để bàn ở phía bắc.
\s5
\v 36 Tại cửa lều, hãy làm một cái rèm bằng chỉ màu xanh dương, tím, đỏ thắm do thợ dệt dệt bằng vải gai mịn.
\v 37 Làm năm cái trụ bằng gỗ keo và bọc vàng để treo tấm rèm này. Các móc trên trụ phải làm bằng vàng, hãy làm năm đế đồng cho các trụ đó.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Hãy làm một bàn thờ bằng gỗ keo, dài năm cu-bít và rộng năm cu-bít. Bàn thờ có hình vuông và cao ba cu-bít.
\v 2 Ngươi hãy gắn thêm các vật hình sừng bò ở bốn góc bàn. Các sừng này sẽ liền với bàn thờ, hãy lấy đồng bọc các sừng ấy.
\s5
\v 3 Hãy làm các vật dụng cho bàn thờ: bình đựng tro, xẻng, chậu, nĩa, và khay. Tất cả vật dụng này phải được làm bằng đồng.
\v 4 Hãy làm một rá lưới bằng đồng cho bàn thờ. Làm bốn khoen đồng cho bốn góc rá lưới.
\s5
\v 5 Ngươi hãy đặt rá lưới bên dưới rìa bàn thờ, nằm ở giữa tính từ đáy lên trên.
\v 6 Dùng gỗ keo làm các đòn khiêng bàn thờ, sau đó bọc bằng đồng.
\s5
\v 7 Xỏ đòn khiêng vào khoen ở hai bên bàn thờ.
\v 8 Ngươi hãy làm bàn thờ rỗng bên trong, lấy ván đóng lại. Hãy làm bàn thờ theo như mẫu Ta đã chỉ cho ngươi trên núi.
\s5
\v 9 Ngươi hãy làm một sân nhỏ cho đền tạm. Về phía nam của sân nhỏ, hãy làm các tấm rèm bằng sợi gai mịn dài một trăm cu-bít.
\v 10 Các tấm rèm có hai mươi trụ với hai mươi đế đồng. Trên các trụ ấy cũng có các móc cũng như thanh ngang bằng bạc.
\s5
\v 11 Tương tự, ở mặt phía bắc sân, hãy làm các tấm rèm dài một trăm cu-bít với hai mươi trụ, hai mươi đế đồng, trên trụ có lỗ và các tay đòn bằng bạc.
\v 12 Dọc theo sân nhỏ ở phía tây, hãy làm một tấm màn dài năm mươi cu-bít, có mười trụ và mười đế.
\v 13 Sân nhỏ ở phía đông cũng dài năm mươi cu-bít.
\s5
\v 14 Hãy làm các tấm rèm dài năm mươi cu-bít ở lối ra vào, với ba trụ và ba đế.
\v 15 Cũng hãy làm các tấm rèm dài năm mươi cu-bít ở phía bên kia, với ba trụ và ba đế.
\v 16 Ngươi hãy làm một tấm màn dài hai mươi cu-bít ở cổng sân nhỏ. Màn được làm bằng vải lanh xanh dương, tím, và đỏ, do thợ thêu dệt bằng sợi gai mịn. Hãy làm bốn trụ với bốn đế cho tấm màn này.
\s5
\v 17 Tất cả các trụ của sân nhỏ phải có các thanh ngang bằng bạc, móc bạc, và đế đồng.
\v 18 Sân nhỏ phải dài một trăm cu-bít, rộng năm mươi cu-bít, và cao năm cu-bít, có các tấm rèm được dệt bằng vải gai mịn treo dọc theo sân trên các đế đồng.
\v 19 Tất cả vật dụng phải được dùng trong đền tạm, và tất cả mười cái cọc lều dành cho đền tạm và sân nhỏ phải được làm bằng đồng.
\s5
\v 20 Ngươi hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu ô-liu tinh khiết ép từ trái ô-liu đến làm dầu thắp đèn để đèn cháy luôn.
\v 21 Trong lều hội họp, bên ngoài tấm màn phía trước hòm giao ước, A-rôn và các con trai người phải giữ đèn cháy từ chiều đến sáng trước mặt Đức Giê-hô-va. Yêu cầu này sẽ là lễ nghi được giữ đời đời qua các thế hệ Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Từ trong dân Y-sơ-ra-ên, hãy gọi A-rôn anh ngươi và các con trai người Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma, làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 2 Hãy làm cho A-rôn, anh ngươi, những lễ phục thánh. Các lễ phục này sẽ làm cho người được kính trọng và rực rỡ.
\v 3 Hãy bảo những thợ giỏi có tài năng, là những người mà Ta đã ban cho thần trí của sự khôn ngoan, làm những bộ lễ phục của A-rôn để người làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\s5
\v 4 Bộ lễ phục mà họ phải làm là một bảng đeo ngực, một ê-phót, một áo choàng, một áo lễ dài, một khăn vấn đầu, và một khăn thắt lưng. Hãy bảo họ làm bộ lễ phục thánh này. Bộ lễ phục này sẽ dành cho A-rôn, anh trai ngươi, cùng các con trai người, họ sẽ làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 5 Thợ thủ công phải dùng vải gai mịn với vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm.
\s5
\v 6 Hãy bảo họ làm ê-phót bằng vàng, có chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Đây phải là công việc của thợ thủ công lành nghề.
\v 7 Ê-phót phải có hai cầu vai gắn vào hai góc phía trên.
\v 8 Đai để cột ê-phót cũng phải được gia công tinh vi; đai được may dính vào ê-phót, vải dệt bằng sợi gai mịn, có chất liệu vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm.
\v 9 Ngươi hãy lấy hai viên bạch ngọc và khắc lên đó tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 10 Sáu tên trên viên này, và sáu tên trên viên kia, theo thứ tự năm sinh của các con trai.
\v 11 Theo cách thợ chạm khắc trên đá, ngươi hãy khắc tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên trên hai viên đá, giống như khắc ấn. Lắp các viên bạch ngọc vào khung vàng.
\v 12 Ngươi hãy gắn hai viên bạch ngọc lên hai cầu vai của ê-phót, chúng sẽ là những viên đá nhắc Đức Giê-hô-va về các con trai của Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ đeo tên của họ trên vai đến trước mặt Đức Giê-hô-va để tưởng nhớ họ.
\s5
\v 13 Ngươi hãy làm các khung vàng
\v 14 và hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng như dây thừng, rồi nó vào khung.
\s5
\v 15 Ngươi hãy bảo thợ khéo làm một bảng đeo ngực để đưa ra quyết định, có kiểu giống như ê-phót. Bảng này được làm bằng vàng, có chỉ màu xanh dương, tím, và đỏ thắm, và dệt bằng vải gai mịn.
\v 16 Bảng có hình vuông. Ngươi hãy gấp bảng đeo ngực làm đôi, dài một gang tay và rộng một gang tay.
\s5
\v 17 Hãy gắn vào bảng ấy bốn hàng đá quý. Hàng thứ nhất gồm ngọc mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc.
\v 18 Hàng thứ nhì gồm thanh ngọc, ngọc lam, và kim cương.
\v 19 Hàng thứ ba gồm ngọc hồng bửu, ngọc mã não, và thạch anh tím.
\v 20 Hàng thứ tư gồm lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và ngọc thạch anh. Tất cả phải được lắp vào khung vàng.
\s5
\v 21 Ngươi hãy xếp các viên ngọc theo thứ tự tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên.
\v 22 Hãy làm các dây chuyền trên bảng đeo ngực như dây thừng, có viền bằng vàng ròng.
\v 23 Hãy làm hai khoen bằng vàng và gắn vào hai mép bảng đeo ngực.
\v 24 Gắn hai dây chuyền vàng vào hai góc bảng đeo ngực.
\s5
\v 25 Gắn các đầu cuối của hai dây chuyền có viền vào hai khung. Sau đó lắp lên hai cầu vai ê-phót ở phía trước.
\v 26 Ngươi hãy làm hai khoen vàng, rồi gắn vào hai góc trong của bảng đeo ngực, về phía trong ê-phót.
\s5
\v 27 Làm thêm hai khoen vàng, kết chúng vào dưới hai cầu vai phía trước ê-phót, sát với đường biên trên đai thắt của ê-phót.
\v 28 Cột khoen bảng đeo ngực vào khoen của ê-phót bằng vải xanh, để cố định trên băng chéo của ê-phót. Như vậy tấm che ngực sẽ không bị rơi khỏi ê-phót.
\s5
\v 29 Khi A-rôn bước vào nơi thánh, người phải đem theo tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên trên bảng đeo ngực dùng để đưa ra quyết định bên tim mình. Đây sẽ luôn là một sự gợi nhớ trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 30 Hãy đặt U-rim và Thum-mim trong bảng đeo ngực để biết quyết định của Ta. Các thẻ này phải nằm trong bảng đeo trên ngực A-rôn khi người ra mắt Đức Giê-hô-va, và A-rôn phải luôn đeo bảng đựng thẻ quyết định cho dân Y-sơ-ra-ên trên ngực mình trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Hãy làm áo dài cho ê-phót hoàn toàn bằng vải xanh.
\v 32 Áo phải có lỗ tròng đầu ở giữa. Lỗ này có viền được dệt để không bị rách. Thợ dệt phải làm công việc này.
\s5
\v 33 Trên đường viền phía dưới áo, ngươi hãy làm các quả lựu có chỉ màu xanh dương, màu tía, và đỏ thắm để kết xung quanh. Gắn các chuông vàng xen kẽ các quả lựu.
\v 34 Cứ một chuông vàng thì có một quả lựu, một chuông vàng thì có một quả lựu cứ tiếp tục như vậy xung quanh lai áo dài.
\v 35 A-rôn phải mặc áo này khi hành lễ, để người ta có thể nghe tiếng chuông khi người vào nơi thánh trước mặt Đức Giê-hô-va và khi người rời khỏi. Như vậy người sẽ không bị chết.
\s5
\v 36 Ngươi hãy làm một cái thẻ bằng vàng ròng và khắc lên đó, như khắc ấn, là BIỆT RIÊNG CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.
\v 37 Dùng dây màu xanh dương buộc thẻ này vào khăn vấn đầu.
\v 38 Thẻ này sẽ ở trên trán A-rôn; người sẽ luôn mang lấy bất cứ tội lỗi nào liên quan đến việc dâng các của lễ thánh mà dân Y-sơ-ra-ên biệt riêng cho Đức Giê-hô-va. Người sẽ luôn đeo thẻ trên trán để Đức Giê-hô-va chấp nhận các của dâng đó.
\s5
\v 39 Hãy làm áo lót bằng vải gai mịn, một khăn vấn đầu bằng vải gai mịn. Cũng hãy bảo thợ thuê làm một cái khăn thắt lưng.
\s5
\v 40 Ngươi hãy làm áo lót, thắt lưng, và băng quấn đầu cho các con trai của A-rôn để họ được kính trọng và uy nghi.
\v 41 Hãy mặc cho A-rôn anh ngươi, và các con trai của người. Hãy xức dầu cho họ, phong chức, và biệt riêng họ cho Ta, để họ thi hành chức tế lễ phục vụ Ta.
\s5
\v 42 Hãy làm cho họ những đồ lót bằng vải lanh để che thân họ từ thắt lưng đến bắp đùi.
\v 43 A-rôn và các con trai người phải mặc những thứ này khi vào lều hội họp hoặc khi đến gần bàn thờ để phục vụ trong nơi thánh. Họ phải mặc vậy đặng không mắc tội chết. Đây sẽ là luật đời đời dành cho A-rôn và hậu duệ của người.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Sau đây là những việc ngươi phải làm để biệt riêng họ cho Ta đặng họ làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 2 Hãy lấy một con bò đực tơ và hai con chiên đực hoàn hảo, hai bánh mì không men, và bánh ngọt không men trộn với dầu. Cũng hãy lấy bánh quế không men có phết dầu. Dùng bột lúa mì nguyên chất làm các bánh quế đó.
\s5
\v 3 Để chúng vào một rổ, đem rổ bánh đó đến dâng cùng với con bò đực và hai con chiên đực.
\v 4 Ngươi hãy dẫn A-rôn và các con trai người đến cửa lều hội họp. Lấy nước thanh tẩy A-rôn và các con trai người.
\s5
\v 5 Lấy bộ lễ phục và mặc cho A-rôn gồm áo dài, áo choàng ê-phót, ê-phót, và bảng đeo ngực, lấy đai của ê-phót đã được khéo léo thêu đan thắt cho người.
\v 6 Đội khăn vấn đầu cho người và đặt mão thánh trên khăn ấy.
\v 7 Lấy dầu xức và đổ lên đầu người để xức dầu cho người.
\s5
\v 8 Hãy đem các con trai người đến và mặc áo dài cho họ.
\v 9 Lấy khăn thắt lưng thắt cho A-rôn và các con trai người rồi đội mũ cho họ. Họ sẽ thi hành chức tế lễ theo luật đời đời. Như vậy, ngươi hãy thánh hiến A-rôn và các con trai người cho Ta để phục vụ Ta.
\s5
\v 10 Tất cả các ngươi hãy đem con bò đực đến trước lều hội họp, rồi A-rôn và các con trai người phải đặt tay trên đầu nó.
\v 11 Hãy giết con bò trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va, ở cửa lều hội họp.
\s5
\v 12 Lấy một chút huyết của con bò đực và dùng ngón tay bôi trên các sừng bàn thờ, rồi đổ phần huyết còn lại xuống chân bàn thờ.
\v 13 Lấy tất cả lớp mỡ bọc bộ lòng, cũng lấy lớp mỡ dính với lá gan và hai quả thận, đem thiêu tất cả trên bàn thờ.
\v 14 Nhưng phần thịt của con bò đực, cũng như da và phân của nó, hãy thiêu bên ngoài hội trại. Đó sẽ là của lễ chuộc tội.
\s5
\v 15 Cũng hãy lấy một con chiên đực, A-rôn và các con trai người phải đặt tay trên đầu nó.
\v 16 Giết con chiên đực đó. Lấy huyết con chiên và rải xung quanh bàn thờ và trên bàn thờ.
\v 17 Chặt con chiên đực thành từng miếng, rửa bộ lòng và chân nó, sau đó đặt bộ lòng, cùng với các miếng thịt và đầu con chiên
\v 18 lên bàn thờ. Thiêu toàn bộ con chiên. Đó sẽ là của lễ thiêu dâng lên Ta, là Đức Giê-hô-va. Của lễ này sẽ tỏa ra một mùi thơm cho Ta; đó sẽ là của lễ thiêu dâng cho Ta.
\s5
\v 19 Sau đó ngươi hãy lấy một con chiên đực khác, A-rôn và các con trai người phải đặt tay lên đầu nó.
\v 20 Giết con chiên và lấy một ít huyết của nó. Bôi huyết lên vành tai phải của A-rôn, và vành tai phải của các con trai người, bôi lên ngón cái của tay phải họ, và ngón chân cái trên chân phải của họ. Ngươi hãy rưới huyết xung quanh bàn thờ.
\s5
\v 21 Lấy một ít huyết trên bàn thờ và một chút dầu xức, rưới lên A-rôn và áo quần người, cũng như các con trai người và áo quần của họ.
\s5
\v 22 Lấy phần mỡ của con chiên đực, mỡ đuôi, lớp mỡ che bộ lòng, lớp mỡ của gan và hai quả thận và bắp vế phải vì con chiên đực này được dâng cho Ta trong lễ tấn phong các thầy tế lễ.
\v 23 Lấy một ổ bánh mì, một bánh ngọt pha dầu, và bánh xốp ra khỏi giỏ bánh mình không men để trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Đặt những thứ này trong tay A-rôn và tay của các con trai người.
\v 25 Sau đó lấy thức ăn từ tay họ và thiêu trên bàn thờ với của lễ thiêu. Của lễ sẽ tỏa ra một hương thơm cho Ta; đây sẽ là của lễ thiêu dâng lên Ta.
\s5
\v 26 Hãy lấy cái ức con chiên đực dùng cho lễ tấn phong của A-rôn và giơ lên cao, đó là của lễ dâng cho Ta, là Đức Giê-hô-va. Rồi phần đó sẽ thuộc về ngươi.
\v 27 Hãy biệt riêng ra thánh cái ức được giơ cao và bắp đùi của phần của lễ được trình dâng cái ức được giơ cao và bắp đùi được trình dâng của con chiên đực, được dành riêng cho A-rôn và các con trai người.
\v 28 Các phần thịt do người Y-sơ-ra-ên dâng phải luôn được chia cho A-rôn và con cháu người. Theo các quy định của lễ thù ân, đây sẽ là những phần dành cho các thầy tế lễ từ các của lễ do dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 29 Bộ lễ phục thánh của A-rôn cũng phải được truyền lại cho các con trai nối sau người. Họ sẽ được xức dầu và phong chức khi mặc lễ phục đó.
\v 30 Thầy tế lễ nối nghiệp kế vị người trong số các con trai người, khi vào lều hội họp để phục vụ Ta trong nơi thánh, phải mặc lễ phục đó trong bảy ngày.
\s5
\v 31 Hãy lấy thịt con chiên đực trong lễ tấn phong thầy tế lễ cho Ta và nấu thịt ấy trong nơi thánh.
\v 32 A-rôn và các con trai người phải ăn thịt chiên đực và bánh trong giỏ đặt tại cửa lều hội họp.
\v 33 Họ phải ăn thịt và bánh mì được dâng để chuộc lỗi cho họ và phong chức cho họ, biệt riêng cho Ta. Không ai khác được ăn món đó, vì đó là phần được biệt riêng ra thánh và dành riêng cho Ta.
\v 34 Nếu còn sót lại phần thịt nào trong của lễ phong chức, hoặc phần bánh mì, thì đến sáng hôm sau, ngươi hãy đem thiêu đi. Không ai được ăn món đó vì nó đã được dành riêng cho Ta.
\s5
\v 35 Như vậy, bởi làm theo mọi điều Ta đã phán truyền ngươi làm, ngươi hãy làm lễ cho A-rôn và các con trai người. Hãy dành bảy ngày để biệt riêng họ cho Ta.
\v 36 Mỗi ngày ngươi hãy dâng một con bò đực làm của lễ chuộc tội. Hãy làm sạch bàn thờ bằng của lễ chuộc tội, và xức dầu trên bàn thờ để biệt riêng cho Ta.
\v 37 Trong bảy ngày, ngươi hãy làm lễ chuộc tội cho bàn thờ và biệt riêng nó cho Đức Giê-hô-va. Sau đó, bàn thờ sẽ hoàn toàn nên thánh. Bất cứ thứ gì chạm vào bàn thờ sẽ được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 38 Hàng ngày hãy thường xuyên dâng trên bàn thờ hai con chiên một tuổi.
\v 39 Ngươi hãy dâng một con chiên vào buổi sáng, và một con chiên vào lúc hoàng hôn.
\s5
\v 40 Với con chiên thứ nhất, hãy dâng một phần mười ê-pha bột thượng hạng trộn với một phần tư hin dầu từ quả ô-liu ép, và một phần tư hin rượu làm lễ quán.
\s5
\v 41 Hãy dâng con chiên thứ nhì vào lúc hoàng hôn. Ngươi hãy dâng của lễ chay và của lễ quán tương tự vào buổi sáng. Các của lễ này sẽ tỏa ra một mùi hương thơm lên Ta; đó sẽ là của lễ thiêu dâng cho Ta.
\v 42 Đây phải là những của lễ thiêu thường xuyên được dâng từ thế hệ này qua thế hệ kia.
\s5
\v 43 Hãy dâng của lễ thiêu ở lối vào lều hội họp trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va, Ta sẽ gặp ngươi và phán cùng ngươi tại đó.
\v 44 Ta sẽ biệt riêng lều hội họp và bàn thờ vì đây là những thứ thuộc về Ta. Ta cũng sẽ biệt riêng A-rôn và các con trai người để làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\s5
\v 45 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên và sẽ là Đức Chúa Trời của họ.
\v 46 Họ sẽ biết Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai Cập đặng Ta ngự ở giữa họ. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của họ.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Ngươi hãy làm một bàn thờ làm bằng gỗ keo để dâng hương.
\v 2 Bàn thờ dài một cu-bít, rộng một cu-bít, theo hình vuông, cao hai cu-bít. Ngươi phải gắn các sừng lên bàn thờ ấy.
\s5
\v 3 Dùng vàng ròng bọc bàn thờ xông hương ở trên mặt bàn, các cạnh, và các sừng. Ngươi hãy làm một đường viền bằng vàng cho bàn thờ.
\v 4 Ngươi hãy làm hai khoen vàng gắn vào dưới đường viền ở hai bên. Các khoen này dùng để xỏ đòn khiêng bàn thờ.
\s5
\v 5 Ngươi hãy lấy gỗ keo làm các cây đòn, sau đó bọc bằng vàng.
\v 6 Hãy đặt bàn thờ xông hương ở trước tấm màn che hòm giao ước, nghĩa là trước nắp thi ân đậy hòm giao ước, là nơi Ta sẽ gặp ngươi.
\s5
\v 7 Mỗi buổi sáng, A-rôn phải xông hương thơm. Người phải xông hương khi trông nom các cây đèn.
\v 8 Buổi chiều, khi A-rôn thắp đèn, người cũng phải dâng hương trên bàn thờ xông hương. Đây phải là nghi thức dâng hương thường xuyên trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va, qua suốt các thế hệ của dân ngươi.
\v 9 Nhưng ngươi chớ dâng thứ hương nào khác trên bàn thờ xông hương, hoặc bất cứ của lễ thiêu hay của lễ chay trên đó. Chớ rưới của lễ quán lên bàn thờ ấy.
\s5
\v 10 Mỗi năm một lần, A-rôn phải làm nghi thức chuộc tội trên các sừng của bàn thờ xông hương. Người sẽ làm nghi thức này bằng cách dùng huyết của của lễ chuộc tội. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ làm nghi thức này trải qua khắp các đời của dân ngươi. Của lễ này sẽ hoàn toàn được biệt riêng cho Ta, là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 12 “Khi ngươi điều tra dân số Y-sơ-ra-ên, mỗi người phải đóng cho Đức Giê-hô-va một món tiền chuộc mạng. Hãy làm việc này sau khi đã thống kê dân số, đặng sẽ không có tai họa nào trên họ khi ngươi thống kê.
\v 13 Ai có tên trong phần điều tra dân số sẽ đóng một nửa se-ken bạc, theo trọng lượng se-ken của nơi thánh (một se-ken bằng hai mươi ghê-ra). Nửa se-ken này sẽ là của dâng cho Ta, là Đức Giê-hô-va.
\v 14 Ai từ hai mươi tuổi trở lên được vào sổ thống kê thì phải dâng của lễ này cho Ta.
\s5
\v 15 Khi dân sự dâng của lễ này cho Ta để chuộc mạng, thì người giàu không được dâng quá phân nửa se-ken, và người nghèo chớ dâng ít hơn.
\v 16 Hãy nhận số tiền chuộc này từ dân Y-sơ-ra-ên và hãy phân bổ món tiền ấy cho việc phục vụ trong lều hội họp. Đây sẽ là một dấu nhắc cho dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Ta, đặng các ngươi chuộc mạng mình.”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se,
\v 18 “Ngươi cũng hãy làm một cái chậu đồng lớn có đế bằng đồng, dùng vào việc tẩy rửa. Hãy đặt cái chậu ấy ở giữ lều hội họp và bàn thờ, hãy đổ nước vào chậu.
\s5
\v 19 A-rôn và các con trai người phải dùng nước đó mà rửa tay chân mình.
\v 20 Khi họ đi vào trong lều hội họp hoặc khi đến gần bàn thờ để thiêu của lễ phục vụ Ta, họ phải rửa tay bằng nước để không chết.
\v 21 Họ phải rửa tay chân để không chết. Đây phải là luật cố định cho A-rôn và con cháu người trong suốt các thế hệ của họ.”
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 23 “Hãy lấy những hương liệu thượng hạng này: 500 se-ken một dược lỏng, 250 se-ken hương nhục quế, 250 se-ken hương quế thanh,
\v 24 500 se-ken quế bì, cân theo trọng lượng se-ken của nơi thánh, và 1 hin dầu ô-liu.
\v 25 Hãy giao cho thợ làm nước hoa dùng các thành phần này để làm dầu xức thánh. Đây sẽ là dầu xức thánh dành riêng cho Ta.
\s5
\v 26 Ngươi hãy dùng dầu này xức lều hội họp, cũng như hòm giao ước,
\v 27 cái bàn và tất cả đồ dùng của nó, chân đèn và các dụng cụ đi kèm, bàn thờ xông hương,
\v 28 bàn thờ dâng của lễ thiêu cùng các thiết bị kèm theo, và cái chậu với đế chậu.
\s5
\v 29 Ngươi hãy biệt riêng chúng cho Ta để chúng hoàn toàn được dành riêng cho Ta. Bất cứ thứ gì chạm vào chúng cũng sẽ được dành riêng cho Ta.
\v 30 Ngươi hãy xức dầu cho A-rôn và các con trai người và biệt riêng họ cho Ta để họ làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 31 Ngươi hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, Đây sẽ là dầu xức được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va trải qua khắp các thế hệ của quý vị.
\s5
\v 32 Không dùng dầu này để xức lên da, cũng không dùng công thức của dầu này để làm bất kỳ dầu nào khác vì nó được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va. Quý vị phải xem đó là dầu thánh.
\v 33 Ai chế biến dầu thơm giống như thế, hoặc ai xức dầu ấy lên người khác, thì người đó sẽ bị loại trừ khỏi dân sự.’”
\s5
\v 34 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy lấy những hương vị - gồm tô hộp hương, hoa yểm hương, và phong tử hương là những hương thơm cùng với nhũ hương nguyên chất, mỗi thứ có lượng như nhau.
\v 35 Hãy làm một thứ hương, trộn với dầu thơm, thêm muối vào, để đó sẽ là một thứ hương nguyên chất dâng cho Ta.
\v 36 Hãy tán hương liệu ấy thành hỗn hợp mịn. Đặt một ít ở phía trước hòm giao ước, trong lều hội họp, là nơi Ta sẽ gặp ngươi. Ngươi hãy biệt riêng thứ hương ấy cho Ta.
\s5
\v 37 Đối với thứ hương này mà ngươi làm, chớ làm cho mình bất cứ hương nào khác bằng công thức này. Đấy phải là thứ hương thánh nhất đối với ngươi.
\v 38 Ai làm thứ hương nào giống vậy để dùng làm dầu thơm sẽ bị khai trừ khỏi dân sự.”
\s5
\c 31
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy xem, Ta đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con của U-ri, cháu của Hu-rơ, từ chi phái Giu-đa.
\s5
\v 3 Ta đã đổ đầy Thần Ta trên Bết-sa-lê-ên, đặng ban cho người sự khôn ngoan, hiểu biết, và kiến thức, về sự thạo nghề,
\v 4 đặng thiết kế những tác phẩm nghệ thuật và chế tác bằng vàng, bạc, và đồng;
\v 5 ngoài ra cũng cắt và mài đá và khảm vào gỗ - làm đủ mọi việc đòi hỏi thạo nghề.
\s5
\v 6 Bên cạnh người, Ta đã chỉ định Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc chi phái Đan. Ta đã ban sự khéo léo cho những ai khôn ngoan đặng họ có thể chế tạo tất cả mọi thứ Ta đã truyền cho ngươi. Việc này bao gồm
\v 7 lều hội họp, hòm giao ước, nắp thi ân đậy hòm, và mọi đồ đạc trong lều
\v 8 bàn và dụng cụ của bàn, cây đèn bằng vàng ròng và mọi phụ tùng của đèn, bàn thờ xông hương,
\v 9 bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi phụ tùng của nó, và cái chậu lớn có đế.
\s5
\v 10 Việc này cũng bao gồm y phục được dệt tinh xảo bộ y phục thánh dành cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người, được biệt riêng cho Ta để họ mặc khi làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 11 Việc này cũng bao gồm dầu xức và hương thơm dành cho nơi thánh. Các thợ nghề phải làm tất cả những thứ y như Ta đã truyền cho ngươi.”
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se:
\v 13 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: Quý vị chắc chắn phải giữ ngày Sa-bát của Đức Giê-hô-va, vì đây sẽ là dấu hiệu giữa Ngài và quý vị trải qua khắp các đời con cháu quý vị đặng quý vị biết rằng Ngài là Đức Giê-hô-va, Đấng biệt riêng quý vị cho Ngài.
\v 14 Vậy hãy giữ ngày Sa-bát và làm nên ngày thánh, là ngày dành cho Ngài. Ai làm ô uế ngày đó sẽ bị xử tử. Ai làm việc trong ngày Sa-bát chắc chắn sẽ bị loại khỏi dân mình.
\v 15 Hãy làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để nghỉ ngơi hoàn toàn, là ngày thánh, được dành riêng để tôn kính Đức Giê-hô-va. Ai làm bất cứ việc gì vào ngày Sa-bát chắc chắn sẽ bị xử tử.
\s5
\v 16 Vậy người Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát. Họ phải giữ ngày này qua các thế hệ mình vì đây là luật cố định.
\v 17 Ngày Sa-bát sẽ luôn là một dấu hiệu giữ Đức Giê-hô-va và dân Y-sơ-ra-ên, vì trong sáu ngày Đức Giê-hô-va đã dựng nên trời và đất, và Ngài nghỉ ngơi và ngừng việc vào ngày thứ bảy.’”
\s5
\v 18 Khi Đức Chúa Trời đã nói chuyện xong với Môi-se trên Núi Si-nai, Ngài ban cho ông hai bảng giao ước, làm bằng đá, do chính tay Ngài viết.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Khi dân sự thấy đã lâu rồi mà Môi-se chưa xuống núi, họ tụ họp quanh A-rôn và nói rằng: “Nào, ông hãy làm cho chúng tôi một thần tượng đặng dẫn đầu chúng tôi. Vì Môi-se, là người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai Cập, chúng tôi không biết ông ấy đã gặp chuyện gì.”
\v 2 Vậy A-rôn trả lời họ: “Hãy tháo bông tai vàng của vợ, con trai, con gái quý vị, rồi đưa tôi.”
\s5
\v 3 Hết thảy dân sự đều tháo bông tai vàng và đem đưa A-rôn.
\v 4 Ông nhận vàng từ họ, dùng một cái khuôn tạo hình, và đúc thành một con bò. Sau đó, dân sự nói: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là thần của quý vị, đã đem quý vị ra khỏi xứ Ai Cập.”
\s5
\v 5 Khi A-rôn thấy vậy, ông dựng một bàn thờ trước tượng con bò rồi tuyên bố; ông nói: “Ngày mai là lễ tôn kính Đức Giê-hô-va.”
\v 6 Hôm sau, dân sự dậy sớm, dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân. Họ ngồi ăn uống, rồi đứng dậy chè chén trụy lạc.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy đi ngay, vì dân ngươi, là dân mà ngươi đã đem ra khỏi đất Ai Cập, đã trở nên thối nát.
\v 8 Chúng đã vội bỏ đường lối Ta đã truyền dạy. Chúng đúc cho mình một con bò rồi thờ cúng nó. Chúng nói, Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai Cập.’”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta đã thấy dân này. Kìa, chúng là một dân bướng bỉnh.
\v 10 Vậy bây giờ, đừng ngăn cản Ta. Cơn giận Ta sẽ bừng lên nghịch chúng, Ta sẽ tiêu diệt chúng. Rồi Ta sẽ làm một dân lớn ra từ ngươi.”
\v 11 Nhưng Môi-se cố van nài Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Ông nói: “Lạy Đức Giê-hô-va, sao Ngài giận dân của Ngài, là dân mà Ngài đã đem ra khỏi Ai Cập bằng quyền năng lớn lao và tay hùng mạnh?
\s5
\v 12 Tại sao để người Ai Cập nói, Ngài dẫn chúng ra khỏi xứ vì mục đích xấu, ấy là đặng giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi giận và động lòng thương không trừng phạt dân của Ngài.
\v 13 Xin Chúa nhớ lại Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, các tôi tớ Ngài, là người mà chính Ngài đã thề và phán rằng, Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như sao trên trời, và Ta sẽ ban cho con cháu ngươi xứ mà Ta đã nói. Chúng sẽ hưởng xứ đó đời đời.’”
\v 14 Vậy Đức Giê-hô-va bỏ qua sự trừng trị mà Ngài nói là sẽ giáng trên dân Ngài.
\s5
\v 15 Môi-se xuống núi, trở về gặp dân sự, trong tay cầm hai bảng giao ước. Các bảng ấy được viết trên cả hai mặt, mặt trước và mặt sau.
\v 16 Hai bảng này là do Đức Chúa Trời làm, và chính Đức Chúa Trời viết, khắc chữ trên đó.
\s5
\v 17 Khi Giô-suê nghe tiếng huyên náo của dân sự, ông nói với Môi-se: “Có tiếng đánh nhau ở trong trại.”
\v 18 Nhưng Môi-se trả lời: “Đấy không phải là tiếng thắng trận đâu, và cũng không phải là tiếng bại trận, nhưng đó là tiếng hát.”
\s5
\v 19 Khi đến gần trại, ông thấy con bò và dân sự đang nhảy múa. Ông nổi giận và ném bai bảng đá đến nỗi vỡ ra dưới chân núi.
\v 20 Ông lấy con bò mà dân sự đã đúc, đốt nó, và nghiền nát thành bột, rồi bỏ vào nước. Ông bắt dân Y-sơ-ra-ên uống nước đó.
\s5
\v 21 Môi-se hỏi A-rôn: “Dân này đã làm gì cho anh đến nỗi anh khiến họ phạm tội nặng vậy?”
\v 22 A-rôn trả lời: “Xin chủ đừng nổi giận. Chủ biết dân này, họ luôn có xu hướng làm ác.
\v 23 Họ bảo tôi, ông hãy làm cho chúng tôi một thần tượng đặng dẫn đầu chúng tôi. Vì Môi-se, là người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai Cập, chúng tôi không biết ông ấy đã gặp chuyện gì.
\v 24 Do đó, tôi bảo họ, Ai có vàng thì hãy tháo ra. Họ đưa vàng cho tôi và tôi bỏ vào lửa, rồi đúc nên con bò này.”
\s5
\v 25 Môi-se thấy dân sự buông thả, vì A-rôn đã để họ sống phóng túng, khiến họ thành trò cười cho kẻ thù.
\v 26 Môi-se đứng ở lối cửa trại và nói: “Ai đứng về phía Đức Giê-hô-va, hãy đến gặp tôi.” Tất cả người Lê-vi đến tụ họp quanh ông.
\v 27 Ông nói cùng họ: “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Mỗi người hãy tra gươm vào hông mình, đi tới đi lui từ cửa lều này qua cửa lều kia trong trại, rồi giết anh em, bạn hữu, và láng giềng mình.’”
\s5
\v 28 Người Lê-vi làm theo y như lời Môi-se ra lệnh. Hôm đó, khoảng ba ngàn người bị giết.
\v 29 Môi-se nói nói với Lê-vi: “Ngày nay quý vị đã được biệt riêng để phục vụ Đức Giê-hô-va, vì mỗi người trong quý vị đã ra tay trên anh em mình, do đó hôm nay Đức Giê-hô-va đã ban phước cho quý vị.”
\s5
\v 30 Hôm sau, Môi-se nói cùng dân sự: “Quý vị đã phạm một tội trọng. Bây giờ tôi sẽ đi lên gặp Đức Giê-hô-va. Có lẽ tôi có thể chuộc tội cho quý vị.”
\v 31 Môi-se trở lại gặp Đức Giê-hô-va và thưa: “Ôi, dân này đã phạm tội lớn và dựng cho mình một tượng bằng vàng.
\v 32 Nhưng bây giờ, xin Chúa tha tội cho họ; còn nếu không, xin Ngài xóa tên con khỏi sách Ngài đã viết.”
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Ai phạm tội đối cùng Ta, Ta sẽ xóa tên người đó khỏi sách Ta.
\v 34 Vậy bây giờ hãy lên đường, hãy dẫn dân sự đến nơi mà Ta đã phán cùng ngươi. Này, thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi. Nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ phạt tội chúng nó.
\v 35 Vậy Đức Giê-hô-va giáng bệnh dịch trên dân sự vì họ đã làm tượng con bò, là thứ mà A-rôn đã đúc.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ngươi và dân ngươi đã đem ra khỏi xứ Ai Cập hãy rời khỏi đây. Hãy đến xứ mà Ta đã thề với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, khi Ta phán, Ta sẽ ban xứ đó cho con cháu ngươi.
\v 2 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi, và Ta sẽ đuổi dân Ca-na-an, A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít.
\v 3 Hãy đến xứ đó, là xứ đượm sữa và mật, nhưng Ta sẽ không đi cùng các ngươi, vì các ngươi là một dân cứng cổ. Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường.”
\s5
\v 4 Khi dân sự nghe tin phiền muộn này, họ than khóc, và không ai đeo trang sức nào cả.
\v 5 Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se: “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, Các ngươi là một dân cứng cổ. Nếu Ta mà đi với các ngươi, Ta sẽ tiêu diệt các ngươi. Vậy bây giờ, hãy tháo trang sức ra để Ta xem nên làm gì với các ngươi.’”
\v 6 Vậy dân Y-sơ-ra-ên không đeo trang sức nào từ Núi Hô-rếp trở đi.
\s5
\v 7 Môi-se lấy một cái lều và dựng bên ngoài cách xa trại. Ông gọi đó là lều hội họp.
\v 8 Khi Môi-se đi ra lều, toàn dân sẽ đứng ở cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào lều.
\v 9 Hễ khi nào Môi-se vào lều, trụ mây hạ xuống và dừng ngay cửa lều, và Đức Giê-hô-va sẽ phán cùng Môi-se.
\s5
\v 10 Hễ khi nào dân sự thấy trụ mây ở cửa lều, ai nấy đều đứng dậy và thờ lạy, mỗi người thờ lạy ngay cửa lều mình.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán trực tiếp cùng Môi-se, như một người nói chuyện với bạn hữu. Sau đó, Môi-se trở về trại, nhưng tôi tớ trẻ tuổi của ông là Giô-suê, con trai của Nun, thì ở lại trong lều.
\s5
\v 12 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va: “Thưa Chúa, Ngài đã phán cùng con là, Hãy dẫn dân này đi, nhưng Chúa chưa cho biết rằng Ngài sẽ sai ai đi với con. Ngài có phán, Ta biết tên ngươi, và ngươi cũng đã được ơn trước mặt Ta.
\v 13 Bây giờ, nếu con được ơn trước mặt Ngài, xin chỉ cho con đường lối của Ngài để con biết Ngài và luôn được ơn trước mặt Ngài. Xin Chúa nhớ rằng dân này là dân của Ngài.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va trả lời: “Ta sẽ đi cùng ngươi, Ta sẽ cho ngươi nghỉ ngơi.”
\v 15 Môi-se thưa với Chúa: “Nếu Ngài không đi với chúng con, xin đừng đưa chúng con ra khỏi đây.
\v 16 Vì nếu không, thì làm thế nào mà con biết rằng con được ơn trước mặt Ngài, cả con và dân sự của Ngài? Há không phải chỉ là nếu Ngài đi cùng chúng con đặng con và dân sự Ngài trở nên khác biệt giữa những dân sống trên đất này sao?”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta sẽ làm điều ngươi đã cầu xin, vì ngươi được ơn trước mặt Ta, và Ta biết tên ngươi.”
\v 18 Môi-se đáp: “Xin cho con thấy sự vinh quang Ngài.”
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán: “Ta sẽ thể hiện tất cả sự tốt lành của Ta trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Giê-hô-va trước mặt ngươi. Ta sẽ nhân từ với ai mà Ta muốn nhân từ, và Ta sẽ thương xót với ai mà Ta muốn thương xót.”
\v 20 Nhưng Đức Giê-hô-va phán: “Ngươi không thể thấy mặt Ta, vì không ai có thể thấy Ta mà còn sống.”
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va lại phán: “Này, đây là một chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá này.
\v 22 Khi sự vinh quang của Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt ngươi trong một khe đá và lấy tay Ta che ngươi cho đến khi Ta đã đi qua.
\v 23 Sau đó, Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ thấy sau lưng Ta, nhưng ngươi sẽ không thấy mặt Ta.”
\s5
\c 34
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy đục hai bảng đá như hai bảng trước. Ta sẽ viết trên đó những lời được ghi trên các bảng trước mà ngươi đã đập bể.
\v 2 Hãy dậy sớm và sửa soạn lên Núi Si-nai, rồi ra mắt Ta trên đỉnh núi.
\s5
\v 3 Không ai được lên núi cùng ngươi. Chớ để Ta thấy ai ở nơi nào trên núi. Ngay cả các bầy gia súc cũng không được đi đến trước núi.”
\v 4 Vậy Môi-se đục hai bảng đá như các bảng thứ nhất, rồi sáng hôm sau ông dậy sớm lên Núi Si-nai, như Đức Giê-hô-va đã truyền. Môi-se đem theo các bảng đá.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va ngự xuống núi trong đám mây và ở lại đó với Môi-se, và xưng danh “Giê-hô-va”.
\v 6 Đức Giê-hô-va đi ngang qua trước mặt ông và tuyên bố: “Giê-hô-va, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời là Đấng nhân từ và rộng lượng, chậm giận, và đầy thành tín theo giao ước và chân thật,
\v 7 Đấng giữ thành tín trong lời giao ước đến ngàn đời, tha thứ sự gian ác, vi phạm, và tội lỗi. Nhưng Ngài không kể kẻ có tội là vô tội. Ngài sẽ đoán phạt tội lỗi của cha mẹ trên con cái và tội lỗi của con cái trên con cháu, đến đời thứ ba và thứ tư.”
\s5
\v 8 Môi-se vội cúi đầu xuống đất và thờ lạy.
\v 9 Ông thưa rằng: “Nếu bây giờ con được ơn trước mặt Ngài, thưa Chúa, xin Chúa đi cùng chúng con, vì dân này cứng cổ. Xin Chúa tha thứ sự gian ác và tội lỗi của chúng con, và xem chúng con là cơ nghiệp Ngài.”
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán: “Kìa, Ta sắp lập một giao ước. Trước mặt dân sự ngươi, Ta sẽ làm nhiều dấu kỳ chẳng hạn như những việc chưa từng xảy ra trên đất hay ở bất cứ nước nào. Toàn dân xung quanh ngươi sẽ thấy những việc lành của Ta, vì đó là một việc đáng sợ mà Ta sẽ làm cho ngươi.
\v 11 Hãy vâng lời phán của Ta hôm nay. Ta sắp đuổi dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít, chỗ Phê-ri-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít khuất mắt ngươi.
\s5
\v 12 Hãy giữ mình, đừng kết ước với dân trong xứ mà ngươi sẽ đến, nếu không thì chúng sẽ trở thành cái bẫy cho các ngươi.
\v 13 Trái lại, phải phá đổ bàn thờ của chúng, nghiền nát các trụ đá cúng tế của chúng, và đốn hạ các cột thờ thần A-suê-ra của chúng.
\v 14 Ngươi không được thờ thần nào khác, vì Ta, là Đức Giê-hô-va, danh Ngài là Đấng ghen tỵ, và là Đức Chúa Trời kỵ tà.
\s5
\v 15 Hãy cẩn thận đừng kết ước với dân nào trong xứ, vì chúng làm điếm với các thần khác và cúng tế các thần đó, chúng sẽ mời ngươi và ngươi sẽ ăn các của cúng đó.
\v 16 Các ngươi thậm chí đem con trai con gái mình làm điếm cho các thần của chúng, và chúng xui con trai các ngươi đàng điếm với các thần của chúng.
\v 17 Đừng nắn cho chính mình bất cứ thần nào nấu bằng kim loại.
\s5
\v 18 Hãy giữ lễ bánh không men. Như Ta đã truyền, các ngươi hãy ăn bánh không men trong bảy ngày theo thời điểm đã định trong tháng A-bíp, vì ngươi đã ra khỏi Ai Cập trong tháng A-bíp.
\s5
\v 19 Tất cả con đầu lòng đều thuộc về Ta, kể cả con đầu lòng của bầy bò và chiên.
\v 20 Ngươi phải lấy một chiên con để chuộc lại con lừa đầu lòng, nhưng nếu không chuộc lại, hãy bẻ cổ nó.
\s5
\v 21 Hãy làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ. Ngươi phải nghỉ ngơi dù nhằm lúc cày cấy hay vụ mùa.
\v 22 Hãy giữ Lễ các Tuần và dâng hoa lợi đầu mùa gặt lúa mì, và hãy giữ Lễ Thu hoạch vào cuối năm.
\s5
\v 23 Tất cả người nam phải ra mắt Ta, là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mỗi năm ba lần.
\v 24 Vì Ta sẽ đuổi các dân khỏi trước mặt ngươi và mở rộng bờ cõi ngươi. Sẽ không ai muốn xâm lược xứ ngươi và chiếm xứ đó khi ngươi đến ra mắt Ta, là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời các ngươi, mỗi năm ba lần.
\s5
\v 25 Ngươi chớ dâng huyết của con sinh tế với men, hoặc thịt của con sinh tế trong Lễ Vượt qua còn lại đến sáng.
\v 26 Ngươi hãy dâng hoa quả đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi vào nhà Ta. Ngươi chớ nấu dê con trong sữa mẹ nó.”
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy viết những lời này, vì chính Ta cam kết trên những lời này mà Ta đã phán, và đã lập giao ước với ngươi và Y-sơ-ra-ên.”
\v 28 Môi-se ở lại đó với Đức Giê-hô-va trong bốn mươi ngày và đêm; ông không ăn hay uống gì cả. Ngài viết trên hai bảng đá các lời giao ước, tức mười điều răn.
\s5
\v 29 Khi Môi-se đem theo hai bảng đá xuống Núi Si-nai, ông không biết rằng da mặt ông đã trở nên sáng chói khi đang nói chuyện với Đức Chúa Trời.
\v 30 Khi A-rôn và dân Y-sơ-ra-ên thấy Môi-se, da mặt chói lói của ông, họ sợ không dám đến gần ông.
\v 31 Nhưng Môi-se gọi họ, và A-rôn cùng các lãnh đạo cộng đồng đến gặp ông. Vậy Môi-se nói cùng họ.
\s5
\v 32 Sau việc này, toàn dân Y-sơ-ra-ên đến gặp Môi-se, và ông nói với họ về mọi mạng lệnh mà Đức Giê-hô-va đã ban cho ông trên Núi Si-nai.
\v 33 Khi Môi-se đã nói xong, ông lấy màn che mặt mình lại.
\s5
\v 34 Hễ khi nào Môi-se đến trước mặt Đức Giê-hô-va để thưa chuyện với Ngài, ông sẽ cởi màn ra. Sau đó ông lại đeo màn lại khi trở về trại. Ông ra khỏi lều và nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên về những gì ông đã được dạy dỗ.
\v 35 Dân Y-sơ-ra-ên thấy mặt của Môi-se sáng ngời. Nhưng sau đó ông lại lấy màn che mặt cho đến chừng nào ông trở lại thưa chuyện với Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 35
\p
\v 1 Môi-se tập họp cả cộng đồng dân Y-sơ-ra-ên và nói rằng: “Đây là những điều Đức Giê-hô-va đã truyền phải làm.
\v 2 Hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh, là ngày Sa-bát để nghỉ ngơi hoàn toàn, là ngày thánh của Đức Giê-hô-va. Ai làm việc trong ngày này sẽ bị xử tử.
\v 3 Chớ nổi lửa trong nhà vào ngày Sa-bát.”
\s5
\v 4 Môi-se nói với cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên: “Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 5 Mỗi người tùy lòng, hãy dâng cho Đức Giê-hô-va vàng, bạc, đồng,
\v 6 chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm và vải gai mịn; lông dê;
\v 7 da chiên nhuộm đỏ và da cá nược; gỗ keo;
\v 8 dầu thắp đèn trong nơi thánh, hương liệu làm dầu xức và hương thơm,
\v 9 bạch bảo ngọc và các thứ đá quý để gắn trên ê-phót và bảng đeo ngực.
\s5
\v 10 Ai trong quý vị có tay nghề hãy đến làm những gì Đức Giê-hô-va đã phán truyền
\v 11 đền tạm và lều, mái che lều, móc, tấm ván, thanh ngang, trụ, và đế trụ;
\v 12 hòm và đòn khiêng, nắp thi ân, và tấm màn che.
\s5
\v 13 Cái bàn và đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn, và bánh trần thiết;
\v 14 cây đèn để thắp sáng và đồ phụ tùng, đèn, và dầu thắp đèn;
\v 15 bàn thờ xông hương và đòn khiêng, dầu xức và hương thơm; màn che cửa đền tạm;
\v 16 bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng, đòn khiêng và phụ tùng; một bồn lớn có đế.
\s5
\v 17 Các tấm màn che sân được gắn trên trụ có đế, và màn che cửa vào sân;
\v 18 cọc cắm lều đền tạm và xung quanh sân, cùng dây thừng.
\v 19 Các bộ lễ phục dệt công phu dùng trong nơi thánh, bộ lễ phục thánh dành cho A-rôn và các con trai người, để họ thi hành chức tế lễ khi phục vụ.”
\s5
\v 20 Sau đó, toàn thể chi phái Y-sơ-ra-ên lui khỏi Môi-se và trở về.
\v 21 Những người có lòng và tinh thần đều tự nguyện đến dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va để dựng đền tạm, cùng mọi việc phục vụ liên quan, và bộ lễ phục thánh.
\v 22 Cả nam và nữ, ai có lòng thành đều đến. Họ đem theo trâm, hoa tai, nhẫn, và đồ trang sức, cùng mọi thứ nữ trang bằng vàng. Cả dân chúng đều dâng của lễ bằng vàng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 23 Ai có chỉ xanh dương, tím, hoặc đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, hoặc da cá nược đều đem đến.
\v 24 Ai có lễ vật bằng bạc hay đồng đều đem đến dâng cho Đức Giê-hô-va, và ai có gỗ keo dùng trong công việc đều đem đến.
\s5
\v 25 Tất cả phụ nữ khéo tay thì tự dệt rồi đem đến những sản phẩm mình đã dệt bằng chỉ xanh dương, tím, hoặc đỏ thắm, hoặc vải gai mịn.
\v 26 Tất cả người nữ đều vui lòng dệt lông dê.
\s5
\v 27 Các lãnh đạo đã dâng bạch bảo ngọc và những viên ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực;
\v 28 họ đem đến hương liệu và dầu thắp đèn, chế ra dầu xức và hương thơm.
\v 29 Người Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ tự nguyện; người nam và người nữ nào có lòng đều đem lễ vật đến để làm mọi việc mà Đức Giê-hô-va đã phán truyền qua Môi-se.
\s5
\v 30 Môi-se nói với người Y-sơ-ra-ên: “Kìa, Đức Giê-hô-va đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con của U-ri, cháu Hu-rơ, từ chi phái Giu-đa.
\v 31 Ngài đã đổ đầy thần Ngài trên Bết-sa-lê-ên, ban cho người có sự khôn ngoan, hiểu biết, và thông biết, về mọi nghề thợ,
\v 32 đặng làm các kiểu nghệ thuật và chế tạo bằng vàng, bạc, và đồng;
\v 33 cũng để cắt, mài ngọc và chạm gỗ - làm mọi công việc nghệ thuật.
\s5
\v 34 Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp, con của A-hi-sa-mạc, từ chi phái Đan, được Chúa ban cho khả năng dạy dỗ.
\v 35 Ngài đã ban cho họ mọi tài khéo léo để làm đủ mọi thứ công việc, làm việc như thợ thủ công, thợ khắc, và thợ dệt chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm và vải gai mịn, và y như thợ dệt. Họ là thợ thủ công làm những việc được giao, họ là những nhà thiết kế có đầu óc nghệ thuật.
\s5
\c 36
\p
\v 1 “Vậy, Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp sẽ làm việc cùng những người khôn sáng mà Đức Giê-hô-va đã ban cho sự khéo tay và thông hiểu để biết cách xây nơi thánh theo mọi sự hướng dẫn mà Ngài đã truyền quý vị phải làm.”
\s5
\v 2 Môi-se triệu tập Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp, và mọi người có tài mà Đức Giê-hô-va đã ban cho kỹ năng và được giục lòng đến làm việc.
\v 3 Họ nhận từ Môi-se mọi lễ vật mà người Y-sơ-ra-ên đã đem đến để xây dựng nơi thánh. Sáng nào dân chúng cũng vẫn đem lễ vật đến cho Môi-se.
\v 4 Vậy hết thảy thợ chuyên môn làm việc ở nơi thánh đều phải tạm ngưng việc mình đang làm.
\s5
\v 5 Họ nói với Môi-se: “Dân sự đang đem đến nhiều hơn số cần thiết để chúng tôi làm các việc Đức Giê-hô-va đã truyền phải làm.”
\v 6 Vậy Môi-se truyền lệnh rằng không ai trong trại được đem đến thêm lễ vật nào nữa để xây nơi thánh. Vậy dân sự không đem gì đến nữa.
\v 7 Họ có thừa vật liệu cho mọi công việc.
\s5
\v 8 Vậy tất cả thợ thủ công trong số đó làm đền tạm bằng mười tấm màn dệt bằng vải gai mịn, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm cùng các hình chê-ru-bim. Đây là công việc của Bết-sa-lê-ên, thợ có tay nghề.
\v 9 Mỗi tấm màn dài hai mươi tám cu-bít, rộng bốn cu-bít. Tất cả các tấm màn đều có cùng kích cỡ.
\v 10 Bết-sa-lê-ên nối năm tấm màn với nhau, và năm tấm còn lại cũng được nối.
\s5
\v 11 Ông làm các vòng bằng chỉ xanh dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ thứ nhất, và ông cũng làm các vòng tương tự dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ thứ nhì.
\v 12 Ông làm năm mươi vòng trên tấm màn thứ nhất và năm mươi vòng trên mép màn ngoài cùng của bộ thứ nhì. Vậy các vòng được lắp đối xứng nhau.
\v 13 Ông làm năm mươi cái móc vàng và nối các tấm màn vào để đền tạm thành hình.
\s5
\v 14 Bết-sa-lê-ên làm các tấm màn bằng lông dê, tạo thành mái lều che đền tạm; ông làm mười một tấm màn như vậy.
\v 15 Mỗi tấm màn dài ba mươi cu-bít, và rộng bốn cu-bít. Mỗi cái trong số mười một tấm màn đều có cùng kích cỡ.
\v 16 Ông kết năm tấm màn với nhau, và sáu tấm màn kia cũng được kết.
\v 17 Ông làm năm mươi vòng ở mép màn ngoài cùng của bộ thứ nhất, và năm mươi vòng ở mép màn ngoài cùng của bộ thứ nhì.
\s5
\v 18 Bết-sa-lê-ên làm năm mươi cái móc đồng để kết hai bộ thành một tấm.
\v 19 Ông làm một tấm phủ lều bằng da chiên nhuộm đỏ, và một tấm phủ khác làm bằng da loại tốt để phủ lên trên.
\s5
\v 20 Bết-sa-lê-ên làm các tấm ván đứng bằng gỗ keo cho đền tạm.
\v 21 Mỗi tấm ván dài mười cu-bít, và rộng một cu-bít rưỡi.
\v 22 Mỗi tấm có hai cái mộng để ghép lại với nhau. Tất cả các tấm ván của đền tạm được làm y như vậy.
\v 23 Ông làm các tấm ván cho đền tạm theo như vậy. Ông làm hai mươi tấm ván cho mặt phía nam.
\s5
\v 24 Bết-sa-lê-ên làm bốn mươi đế bạc dưới hai mươi tấm ván. Tấm ván thứ nhất có hai đế phía dưới để ráp, và mỗi tấm còn lại cũng có hai đế phía dưới để ráp.
\v 25 Phía bên kia đền tạm, về phía bắc, ông làm hai mươi tấm ván
\v 26 và bốn mươi đế bạc. Dưới tấm ván thứ nhất có hai đế, tấm tiếp theo cũng có hai đế.
\s5
\v 27 Ở mặt sau của đền tạm về phía tây, Bết-sa-lê-ên làm sáu tấm ván.
\v 28 Ông làm hai tấm ván ở hai góc sau của đền tạm.
\s5
\v 29 Các tấm ván này không dính vào đáy, nhưng được ghép ở đầu bằng cùng một cái khoen tương tự. Cả hai góc sau đều được làm như vậy.
\v 30 Có tám tấm ván, cùng với các đế bạc. Có mười sáu đế tất cả, hai đế dưới tấm ván thứ nhất, hai đế dưới tấm ván thứ nhì, và cứ như vậy.
\s5
\v 31 Bết-sa-lê-ên làm các thanh ngang bằng gỗ keo năm thanh ngang cho các tấm ván ở phía bên này đền tạm,
\v 32 năm thanh ngang cho các tấm ở phía bên kia đền tạm, và năm thanh ngang cho các tấm ván ở phía bên kia đền tạm về hướng tây.
\v 33 Ông làm thanh ngang đặt chính giữa các tấm ván, từ đầu này đến đầu kia.
\v 34 Ông bọc vàng cho các tấm ván. Ông làm khoen vàng để xỏ các thanh ngang, và lấy vàng bọc các thanh ngang.
\s5
\v 35 Bết-sa-lê-ên làm tấm màn bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, và vải gai mịn, cho thợ lành nghề thêu hình các chê-ru-bim.
\v 36 Ông làm bốn trụ bằng gỗ keo để treo tấm màn, và bọc các trụ ấy bằng vàng. Ông cũng làm các móc vàng trên trụ, và đúc bốn đế bạc.
\s5
\v 37 Ông làm một tấm màn che cửa vào lều. Màn được làm bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn, đây là công việc của thợ thêu.
\v 38 Ông cũng làm năm cây trụ có móc để treo màn. Ông lấy vàng bọc các đầu trụ và đai trụ. Năm đế trụ được làm bằng đồng.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Bết-sa-lê-ên làm một cái hòm bằng gỗ keo. Hòm dài hai cu-bít rưỡi; rộng một cu-bít rưỡi; và cao một cu-bít rưỡi.
\v 2 Ông lấy vàng ròng bọc bên trong lẫn bên ngoài hòm và làm đường viền bằng vàng chung quanh.
\v 3 Ông đúc bốn khoen vàng gắn vào bốn chân hòm, mỗi bên có hai khoen.
\s5
\v 4 Ông làm các cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.
\v 5 Ông xỏ đòn khiêng vào các khoen ở hai bên hòm.
\v 6 Ông làm một nắp thi ân bằng vàng ròng dài hai cu-bít rưỡi, và rộng một cu-bít rưỡi.
\s5
\v 7 Bết-sa-lê-ên làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng rồi gắn ở hai đầu nắp thi ân.
\v 8 Một chê-ru-bim ở đầu này và một chê-ru-bim ở đầu kia của nắp.
\v 9 Các chê-ru-bim giương cánh che nắp thi ân. Hai chê-ru-bim đứng đối diện nhau và mặt hướng xuống nắp thi ân.
\s5
\v 10 Bết-sa-lê-ên làm một cái bàn bằng gỗ keo, dài hai cu-bít, rộng một cu-bít, và cao một cu-bít rưỡi.
\v 11 Ông lấy vàng ròng bọc bàn và làm một đường viền bằng vàng ròng quanh bàn.
\v 12 Ông đóng khung quanh bàn, rộng một gang tay, và một đường viền bằng vàng.
\v 13 Ông đúc bốn khoen vàng và gắn vào bốn chân bàn ở bốn góc.
\s5
\v 14 Các khoen được gắn vào khung để xỏ đòn khiêng.
\v 15 Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ keo bọc vàng.
\v 16 Ông làm các dụng cụ để trên bàn dĩa, muỗng, chén, và bình dùng cho của lễ quán. Các dụng cụ này được làm bằng vàng ròng.
\s5
\v 17 Ông làm cây đèn bằng vàng dát có đế và trục. Các đài hoa, nụ hoa, và cánh hoa đều được gắn vào cây đèn thành một khối.
\v 18 Sáu nhánh tỏa ra hai bên ba nhánh bên này và ba nhánh bên kia cây đèn.
\v 19 Nhánh thứ nhất có ba đài hoa như hình hoa hạnh nhân, với một nụ hoa và một cánh hoa. Sáu nhánh tỏa ra hai bên cây đèn đều giống nhau.
\s5
\v 20 Trên thân đèn, ở trục giữa, có bốn đài có hình giống như hoa hạnh nhân, với nụ và cánh hoa.
\v 21 Có một nụ ở dưới cặp nhánh thứ nhất dính liền thành một khối, và một nụ ở dưới cặp nhánh thứ nhì dính liền thành một khối. Cũng vậy, có một nụ ở dưới cặp nhánh thứ ba, dính liền thành một khối. Tất cả sáu nhánh hai bên cây đèn đều được thiết kế như nhau.
\v 22 Các nụ và nhánh đều dính liền nhau, được làm bằng vàng ròng.
\s5
\v 23 Bết-sa-lê-ên làm cây đèn và bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và khay bằng vàng ròng.
\v 24 Ông dùng một ta-lâng vàng ròng làm cây đèn và các phụ kiện của đèn.
\s5
\v 25 Bết-sa-lê-ên làm một bàn thờ xông hương. Ông làm bàn thờ này bằng gỗ keo, dài một cu-bít, và rộng một cu-bít. Bàn có hình vuông, cao hai cu-bít. Bàn thờ có các sừng được gắn dính liền.
\v 26 Ông bọc vàng ròng cho bàn thờ xông hương trên mặt bàn, bốn bên, và sừng của bàn thờ. Ông cũng làm một đường viền bàn bằng vàng.
\s5
\v 27 Ông làm hai khoen vàng gắn vào hai bên bàn dùng để xỏ đòn khiêng.
\v 28 Ông làm các cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.
\v 29 Ông làm dầu xức thánh và hương thơm, đây là việc của thợ pha chế nước hoa.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Bết-sa-lê-ên dùng gỗ keo làm bàn thờ dâng của lễ thiêu. Bàn thờ có hình vuông, dài năm cu-bít, rộng năm cu-bít và cao ba cu-bít.
\v 2 Ông làm bốn sừng bò ở bốn góc bàn. Sừng được gắn dính liền vào bàn thờ thành một khối, rồi ông lấy đồng bọc bàn thờ.
\v 3 Ông làm các đồ dùng cho bàn thờ - thùng đựng tro, xẻng, cái chậu, nĩa xiên thịt, và mâm đựng lửa. Tất cả đồ dùng này được làm bằng đồng.
\s5
\v 4 Ông làm một cái rá bằng lưới đồng cho bàn thờ, đặt dưới viền, nằm ở lưng chừng tính từ đáy.
\v 5 Ông đúc bốn khoen gắn ở bốn góc của rá đồng để xỏ đòn khiêng.
\s5
\v 6 Họ chế tác các viên bạch bảo ngọc, gắn vào các khuôn vàng, giống như chạm trổ trên con dấu, và khắc tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Bết-sa-lê-ên đặt các viên ngọc lên cầu vai của ê-phót, như những viên đá để Đức Giê-hô-va nhớ đến mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên theo như Ngài đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 8 Thợ thủ công lành nghề làm một bảng đeo ngực, có kiểu cách như ê-phót. Ông làm bảng đeo ngực bằng vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\s5
\v 9 Bảng có dạng hình vuông. Họ gấp đôi bảng đeo ngực. Bảng đeo ngực dài một gang tay và rộng một gang tay.
\v 10 Họ gắn vào đó bốn hàng đá quý. Hàng thứ nhất là hồng ngọc, hoàng bích ngọc, và ngọc hồng lựu.
\s5
\v 11 Hàng thứ nhì là ngọc lục bảo, lam bảo ngọc, và kim cương.
\v 12 Hàng thứ ba là hoàng hồng ngọc, ngọc mã não, và thạch anh tím.
\s5
\v 13 Hàng thứ tư là lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên đá quý được gắn vào khuôn vàng.
\v 14 Các viên ngọc được xếp theo thứ tự tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên. Y như việc khắc dấu, mỗi tên tượng trưng cho một trong mười hai chi phái.
\v 15 Trên bảng đeo ngực, họ làm các sợi dây chuyền bằng vàng.
\v 16 Họ làm hai khuôn vàng và hai khoen vàng, rồi gắn hai khoen vào hai góc trên bảng đeo ngực.
\s5
\v 17 Họ gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen trên hai góc bảng đeo ngực.
\v 18 Họ gắn hai đầu còn lại của dây chuyền vào hai khuôn. Họ gắn chúng vào các cầu vai phía trước ê-phót.
\v 19 Họ làm hai khoen vàng và gắn lên hai góc khác trên bảng đeo ngực, ở mép kế đường viền bên trong.
\v 20 Họ làm thêm hai khoen vàng và gắn dưới đáy hai cầu vai phía trước ê-phót, gần với đường nối phía trên thắt lưng bằng vải gai mịn của ê-phót.
\s5
\v 21 Họ cột khoen bảng đeo ngực vào khoen của ê-phót bằng một dây màu xanh, để cố định trên thắt lưng được làm bằng vải gai mịn của ê-phót. Như vậy bảng đeo ngực sẽ không rớt khỏi ê-phót. Công việc này được thực hiện theo như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 22 Bết-sa-lê-ên sai thợ dệt làm áo choàng cho ê-phót hoàn toàn bằng vải tím.
\v 23 Áo choàng có lỗ tròng đầu ở giữa. Xung quanh cổ áo có một đường viền để không bị rách.
\s5
\v 24 Trên gấu áo, họ làm các quả lựu bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\v 25 Họ làm các chuông vàng, rồi gắn chuông giữa các quả lựu xung quanh gấu áo choàng, giữa các quả lựu
\v 26 mỗi quả nằm xen kẽ với một cái chuông, và cứ một cái chuông thì có một quả lựu quanh gấu áo choàng mà A-rôn mặc để phục vụ. Đây là việc Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 27 Họ làm các áo trong bằng vải gai mịn cho A-rôn và các con của người.
\v 28 Họ làm khăn quấn đầu bằng vải gai mịn, băng bịt đầu có hoa mỹ làm bằng vải gai mịn, áo lót làm bằng vải gai mịn,
\v 29 và dây thắt lưng do thợ dệt làm bằng vải gai mịn với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm. Đây là việc mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 30 Họ làm cái thẻ cho vương miện bằng vàng ròng; họ khắc lên đó, như cách khắc dấu, ghi là BIỆT RIÊNG CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.
\v 31 Họ dùng sợi xanh dương buộc khăn quấn đầu. Việc này được thực hiện y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se
\s5
\c 39
\p
\v 1 Họ dùng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm để dệt những bộ lễ phục cho thầy tế lễ phục vụ trong nơi thánh. Họ may lễ phục cho A-rôn theo như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 2 Bết-sa-lê-ên làm cái ê-phót bằng vàng, có chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\v 3 Họ dát mỏng vàng lá và cắt thành sợi, thêu với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, trên vải gai mịn, việc này do thợ thủ công lành nghề thực hiện.
\s5
\v 4 Họ làm hai cầu vai cho ê-phót, gắn vào hai bên góc trên của ê-phót.
\v 5 Đai cột ê-phót làm bằng vải gai mịn như ê-phót; đai được gắn vào ê-phót thành một khối, đai được làm bằng vàng, dệt bằng vải gai mịn, với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm theo như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 6 Họ chế tác các viên bạch bảo ngọc, gắn vào các khuôn vàng, giống như chạm trổ trên con dấu, và khắc tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Bết-sa-lê-ên đặt các viên ngọc lên cầu vai của ê-phót, như những viên đá để Đức Giê-hô-va nhớ đến mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên theo như Ngài đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 8 Thợ thủ công lành nghề làm một bảng đeo ngực, có kiểu cách như ê-phót. Ông làm bảng đeo ngực bằng vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\v 9 Bảng có dạng hình vuông. Họ gấp đôi bảng đeo ngực. Bảng đeo ngực dài một gang tay và rộng một gang tay.
\s5
\v 10 Họ gắn vào đó bốn hàng đá quý. Hàng thứ nhất là hồng ngọc, hoàng bích ngọc, và ngọc hồng lựu.
\v 11 Hàng thứ nhì là ngọc lục bảo, lam bảo ngọc, và kim cương.
\v 12 Hàng thứ ba là hoàng hồng ngọc, ngọc mã não, và thạch anh tím.
\v 13 Hàng thứ tư là lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên đá quý được gắn vào khuôn vàng.
\s5
\v 14 Các viên ngọc được xếp theo thứ tự tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên. Y như việc khắc dấu, mỗi tên tượng trưng cho một trong mười hai chi phái.
\v 15 Trên bảng đeo ngực, họ làm các sợi dây chuyền bằng vàng.
\v 16 Họ làm hai khuôn vàng và hai khoen vàng, rồi gắn hai khoen vào hai góc trên bảng đeo ngực.
\s5
\v 17 Họ gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen trên hai góc bảng đeo ngực.
\v 18 Họ gắn hai đầu còn lại của dây chuyền vào hai khuôn. Họ gắn chúng vào các cầu vai phía trước ê-phót.
\s5
\v 19 Họ làm hai khoen vàng và gắn lên hai góc khác trên bảng đeo ngực, ở mép kế đường viền bên trong.
\v 20 Họ làm thêm hai khoen vàng và gắn dưới đáy hai cầu vai phía trước ê-phót, gần với đường nối phía trên thắt lưng bằng vải gai mịn của ê-phót.
\s5
\v 21 Họ cột khoen bảng đeo ngực vào khoen của ê-phót bằng một dây màu xanh, để cố định trên thắt lưng được làm bằng vải gai mịn của ê-phót. Như vậy bảng đeo ngực sẽ không rớt khỏi ê-phót. Công việc này được thực hiện theo như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 22 Bết-sa-lê-ên sai thợ dệt làm áo choàng cho ê-phót hoàn toàn bằng vải tím.
\v 23 Áo choàng có lỗ tròng đầu ở giữa. Xung quanh cổ áo có một đường viền để không bị rách.
\v 24 Trên gấu áo, họ làm các quả lựu bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\s5
\v 25 Họ làm các chuông vàng, rồi gắn chuông giữa các quả lựu xung quanh gấu áo choàng, giữa các quả lựu
\v 26 mỗi quả nằm xen kẽ với một cái chuông, và cứ một cái chuông thì có một quả lựu quanh gấu áo choàng mà A-rôn mặc để phục vụ. Đây là việc Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 27 Họ làm các áo trong bằng vải gai mịn cho A-rôn và các con của người.
\v 28 Họ làm khăn quấn đầu bằng vải gai mịn, băng bịt đầu có hoa mỹ làm bằng vải gai mịn, áo lót làm bằng vải gai mịn,
\v 29 và dây thắt lưng do thợ dệt làm bằng vải gai mịn với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm. Đây là việc mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 30 Họ làm cái thẻ cho vương miện bằng vàng ròng; họ khắc lên đó, như cách khắc dấu, ghi là BIỆT RIÊNG CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.
\v 31 Họ dùng sợi xanh dương buộc khăn quấn đầu. Việc này được thực hiện y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 32 Như vậy, việc thi công đền tạm, lều hội họp, đều hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên đã làm mọi thứ. Họ làm theo mọi chỉ dẫn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 33 Họ đem đền tạm đến cho Môi-se cái lều và mọi đồ dùng, các móc, tấm ván, thanh ngang, cột, và đế;
\v 34 tấm phủ lều làm bằng da chiên nhuộm đỏ, mái che làm bằng da cá nược, và bức màn che
\v 35 chiếc hòm giao ước, cũng như các cây đòn và nắp thi ân.
\s5
\v 36 Họ đem đến cái bàn, đồ dùng của bàn, và bánh trần thiết;
\v 37 cây đèn bằng vàng ròng và dãy đèn, cùng các phụ kiện của cây đèn và dầu thắp đèn;
\v 38 bàn thờ bằng vàng, dầu xức và hương thơm; màn treo ở cửa lều;
\v 39 bàn thờ bằng đồng với lưới đồng, các đòn và vật dụng cùng cái chậu lớn có đế.
\s5
\v 40 Họ đem đến các tấm màn che sân cùng với cột có đế, tấm màn che cửa vào sân; dây và các cọc căng lều; cùng mọi trang thiết bị phục vụ ở đền tạm, lều hội họp.
\v 41 Họ đem đến bộ lễ phục dệt bằng vải gai mịn dùng để phục vụ ở nơi thánh, các bộ lễ phục dành cho A-rôn và các con trai người, để họ thi hành chức tế lễ.
\s5
\v 42 Như vậy, dân Y-sơ-ra-ên làm đủ mọi việc Đức Giê-hô-va đã phán truyền cho Môi-se.
\v 43 Môi-se kiểm tra tất cả công việc, và họ đã hoàn tất. Họ làm y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền. Sau đó Môi-se chúc phước cho họ.
\s5
\c 40
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi hãy dựng đền tạm, lều hội họp.
\s5
\v 3 Hãy đặt hòm giao ước trong lều, và lấy màn che hòm lại.
\v 4 Ngươi hãy đem bàn vào lều và sắp xếp các đồ dùng của bàn cho ngăn nắp. Sau đó, hãy đem vào lều cây đèn và đặt đèn lên đó.
\s5
\v 5 Ngươi hãy đặt bàn thờ xông hương bằng vàng trước hòm giao ước, và treo màn ở cửa đền tạm.
\v 6 Đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu ở trước lối vào đền tạm, tức lều hội họp.
\v 7 Đặt cái chậu lớn ở giữa lều hội họp và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó.
\s5
\v 8 Làm một cái sân quanh lều, treo màn ở lối vào sân.
\v 9 Lấy dầu xức và xức lên đền tạm và mọi thứ trong đó. Ngươi hãy biệt riêng lều cùng mọi thứ trong đó cho Ta; đó sẽ là đền thánh.
\v 10 Ngươi hãy xức dầu lên bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi đồ phụ tùng. Hãy biệt riêng bàn thờ cho Ta, nó sẽ hoàn toàn được dành cho Ta.
\v 11 Hãy xức dầu lên chậu đồng và đế chậu, rồi biệt riêng nó cho Ta.
\s5
\v 12 Hãy đem A-rôn và các con trai người đến cửa lều hội họp, rồi lấy nước rửa sạch họ.
\v 13 Hãy mặc bộ lễ phục thánh cho A-rôn, xức dầu cho người, và biệt riêng người cho Ta để người làm thầy tế lễ hầu việc Ta.
\s5
\v 14 Hãy đem các con trai người đến và mặc áo dài cho họ.
\v 15 Hãy xức dầu cho họ như ngươi xức cho cha của họ đặng họ làm thầy tế lễ phục vụ Ta. Bởi xức dầu, các đời con cháu họ sẽ giữ chức thầy tế lễ.”
\v 16 Đây là việc Môi-se đã làm; ông tuân theo mọi điều Đức Giê-hô-va truyền cho ông. Ông làm hết những việc này.
\s5
\v 17 Vậy đền tạm được dựng lên vào ngày mồng một tháng giêng năm thứ nhì.
\v 18 Môi-se dựng đền tạm, đặt các đế vào đúng vị trí, dựng các tấm ván, gắn các thanh ngang, dựng các cột và trụ.
\v 19 Ông trải tấm phủ lên đền tạm và trải tấm bạt lên trên theo như Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 20 Ông lấy các bảng giao ước và đặt vào trong hòm. Ông cũng xỏ đòn khiêng lên hòm rồi đậy nắp thi ân.
\s5
\v 21 Ông đem hòm vào trong đền tạm. Ông treo tấm màn che hòm giao ước, y như Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 22 Ông đặt cái bàn vào trong lều hội họp, về phía bắc đền tạm, bên ngoài bức màn.
\v 23 Ông để bánh ngăn nắp lên bàn trước mặt Đức Giê-hô-va theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 24 Ông đặt cây đèn vào lều hội họp, đối diện bàn, về phía nam của đền tạm.
\v 25 Ông thắp đèn trước mặt Đức Giê-hô-va theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 26 Ông đặt bàn thờ xông hương bằng vàng vào trong lều hội họp, phía trước tấm màn.
\v 27 Ông đốt hương thơm trên đó theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 28 Ông giăng màn ở cửa đền.
\v 29 Ông đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu ở cửa đền tạm, tức lều hội họp. Ông dâng lên đó của lễ thiêu và của lễ chay theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 30 Ông đặt cái chậu ở giữa lều hội họp và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó để rửa.
\s5
\v 31 Môi-se, A-rôn, và các con trai người rửa tay chân bằng nước trong chậu này
\v 32 bất cứ khi nào họ vào lều hội họp hay bất cứ khi nào họ đến bàn thờ. Họ rửa sạch mình theo như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 33 Môi-se dựng cái sân quanh đền tạm và bàn thờ. Ông giăng tấm màn ở cửa vào sân. Môi-se hoàn tất công trình theo y như vậy.
\s5
\v 34 Mây che lều hội họp, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đổ đầy trên đền tạm.
\v 35 Môi-se không thể bước vào lều hội họp vì đám mây che trên lều, và vì vinh quang của Đức Giê-hô-va ngập tràn đền tạm.
\s5
\v 36 Bất cứ khi nào đám mây rời khỏi đền tạm, dân Y-sơ-ra-ên sẽ đi tiếp.
\v 37 Nhưng nếu đám mây không rời khỏi đền tạm, thì dân sự sẽ không đi. Họ sẽ ở lại cho đến ngày đám mây cất lên.
\v 38 Vì mây của Đức Giê-hô-va bao phủ đền tạm vào ban ngày, và lửa của Ngài ngự vào ban đêm, trước mặt toàn thể dân sự Y-sơ-ra-ên trong suốt hành trình của họ.