\v 1 Tại xứ U-xơ có một người tên là Gióp; Gióp vốn là người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều dữ.
\v 2 Ông có bảy con trai và ba con gái.
\v 3 Ông sở hữu bảy ngàn con chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm cặp bò đực, và năm trăm con lừa cùng rất nhiều tôi tớ. Ông là người giàu sang nhất trong tất cả các dân ở Phương Đông.
\s5
\v 4 Hàng ngày, các con trai ông thay phiên nhau đãi tiệc trong nhà mình và họ sai người đi mời ba chị em gái cùng đến ăn uống với họ.
\v 5 Khi các ngày tiệc tùng đã qua rồi, Gióp sai người kêu họ đến và dâng họ cho Đức Chúa Trời. Ông thức dậy sớm vào buổi sáng và dâng của lễ thiêu cho từng người con, vì ông nghĩ, “Có thể các con ta đã phạm tội và lòng chúng nó báng bổ Đức Chúa Trời.” Gióp luôn làm như vậy.
\v 8 Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi có để ý thấy Gióp, tôi tớ Ta không? Trên thế gian chẳng có ai như nó, một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều dữ.”
\s5
\v 9 Sa-tan trả lời Đức Giê-hô-va, “Gióp kính sợ Đức Chúa Trời chẳng phải vì điều gì sao?
\v 10 Ngài há không dựng hàng rào xung quanh người, gia đình và mọi thứ tứ bề sao? Ngài đã ban phước cho công việc của tay người, và tài sản của người trên đất đã thêm lên.
\v 11 Nhưng xin Chúa giơ tay Ngài ra đánh trên mọi thứ của người, rồi người sẽ từ bỏ Ngài.”
\v 12 Đức Giê-hô-va bảo Sa-tan, “Kìa, mọi vật của người đều tùy vào quyền trong tay ngươi; chớ tra tay ngươi trên người.” Vậy Sa-tan lui khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 16 Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy đến báo, “Lửa của Đức Chúa Trời giáng từ trời và thiêu đốt chiên cùng các tôi tớ; chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”
\v 17 Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy đến báo, “Dân Canh-đê lập thành ba đạo quân, xông vào lạc đà và cướp đi mất. Vâng, chúng đã giết các tôi tớ bằng gươm, chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”
\s5
\v 18 Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy về báo, “Các con trai và con gái ông đang ăn và uống rượu trong nhà cậu cả.
\v 19 Một cơn gió lớn từ hoang mạc nổi lên và đánh sập bốn góc nhà, đè lên những người trẻ, tất cả đều tử vong, chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”
\s5
\v 20 Gióp đứng dậy, xé áo choàng, cạo đầu, sấp mặt xuống đất mà thờ lạy Đức Chúa Trời.
\v 21 Ông nói, “Tôi đã trần truồng lọt khỏi lòng mẹ tôi, tôi cũng trần truồng trở về lại đó thôi. Đức Giê-hô-va ban cho, và Đức Giê-hô-va cất đi; nguyện chúc tán danh Đức Giê-hô-va.”
\v 3 Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan, “Ngươi có để ý thấy Gióp, tôi tớ Ta không? Trên thế gian chẳng có ai như nó, một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh điều dữ. Gióp vẫn giữ lòng liêm chính, dù ngươi đã xúi Ta ra tay hại nó vô cớ.”
\s5
\v 4 Sa-tan trả lời Đức Giê-hô-va, “Thật vậy, da đền da; người sẽ từ bỏ hết mọi thứ người có để giữ mạng sống.
\v 9 Vợ ông bảo, “Ông vẫn còn giữ lòng liêm chính sao? Hãy rủa Đức Chúa Trời rồi chết quách đi.”
\v 10 Nhưng ông nói với bà, “Bà nói y như đàn bà dại dột. Bà thật nghĩ rằng chúng ta nên nhận điều tốt lành từ tay Chúa mà không nhận điều dữ sao?” Trong việc này, Gióp không phạm tội bởi môi miệng mình.
\v 11 Bấy giờ khi ba bạn của Gióp hay tin về tất cả những việc dữ đã xảy đến trên ông, mỗi người từ nơi mình đến gặp ông: Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Xô-pha người Na-a-ma. Họ hẹn ngày đến than khóc với ông và an ủi ông.
\s5
\v 12 Khi thấy ông từ đàng xa, họ không thể nhận ra ông; họ lớn tiếng khóc; mỗi người xé áo choàng mình và tung bụi đất lên trời và lên đầu mình.
\v 13 Họ ngồi xuống đất với ông suốt bảy ngày và bảy đêm, không ai nói với nhau một lời nào, vì họ thấy nỗi sầu khổ của ông là quá lớn.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Sau việc này, Gióp mở miệng rủa sả ngày sinh của ông.
\v 2 Ông nói:
\v 3 “Ước gì ngày tôi sinh ra tàn lụi, đêm nói rằng, ‘Một bé trai được thụ thai.’
\s5
\v 4 Ước gì ngày đó tối tăm; ước gì Đức Chúa Trời từ trên cao không nhớ đến nó, ánh mặt trời cũng không chiếu trên nó.
\v 5 Ước gì bóng đêm và bóng sự chết cứ bao trùm nó; ước gì mây che phủ nó; ước gì mọi thứ làm cho ngày ấy đen tối thật khiến kinh hãi.
\s5
\v 6 Ước gì bóng tối hãm đêm ấy: ước gì nó đừng hoan hỉ giữa các ngày trong năm; ước gì nó không được tính trong số các tháng.
\v 7 Kìa, ước gì đêm đó tĩnh mịch; ước gì đêm ấy không có tiếng reo vui.
\s5
\v 8 Hãy để họ rủa sả ngày đó, là những người biết đánh thức Lê-vi-a-than.
\v 9 Hãy để những ngôi sao chạng vạng trong ngày đó trở nên tối tăm. Hãy để ngày đó tìm ánh sáng nhưng chẳng thấy ánh sáng; nó cũng chẳng thấy bình minh ló dạng,
\v 10 vì ngày ấy không đóng cửa tử cung mẹ tôi, cũng không giấu sự khó khăn khỏi mắt tôi.
\s5
\v 11 Sao tôi không chết ngay khi vừa lọt lòng mẹ? Sao tôi không trút linh hồn khi mẹ tôi sanh tôi ra?
\v 12 Sao đầu gối của mẹ đỡ lấy tôi? Hay tại sao có bầu sữa mẹ cho tôi bú?
\s5
\v 13 Vì bấy giờ tôi ắt sẽ nằm yên; tôi hẳn sẽ ngủ và an nghỉ
\v 14 cùng các vua và cố vấn trên đất, là những người đã xây lăng mộ cho mình mà nay đã đổ nát.
\s5
\v 15 Hoặc tôi hẳn sẽ nằm cùng các hoàng thân giàu có, họ chứa vàng bạc đầy nhà.
\v 16 Hay tôi có thể bị chết non, như hài nhi không hề thấy ánh sáng.
\s5
\v 17 Kẻ ác thôi quấy phá; người mệt mỏi được yên nghỉ.
\v 18 Tù nhân chung sống thư thái; họ không nghe tiếng của chủ nô.
\v 19 Người thấp bé và người giàu sang đều ở đó; tôi tớ được tự do khỏi chủ mình.
\s5
\v 20 Sao người khốn khổ được thấy ánh sáng; sao người cay đắng trong lòng lại được sống;
\v 21 người nào muốn chết thì cũng không chết được; họ tìm sự chết nhiều hơn những người tìm kho tàng?
\v 22 Sao người hớn hở vui mừng được thấy ánh sáng trong khi người có thể tìm mộ?
\s5
\v 23 Sao người chẳng biết đường lối mình lại được thấy ánh sáng, tức là người được Đức Chúa Trời bảo vệ?
\v 24 Tôi thở dài thay vì ăn; tôi rên rỉ như nước tràn tuôn
\s5
\v 25 Vì điều tôi sợ đã đến trên tôi; điều tôi khinh khiếp đã xảy đến với tôi.
\v 26 Tôi không thoải mái, tôi không yên tịnh, tôi không được nghỉ ngơi; gian khó đã đến.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ Ê-li-pha người Tê-man đáp rằng,
\v 2 Nếu có ai tìm cách nói với ông, ông có mất lòng không? Nhưng ai có thể lặng thinh?
\v 3 Kìa, ông đã dạy dỗ nhiều người; ông đã làm cho tay yếu đuối trở nên mạnh mẽ.
\s5
\v 4 Lời của ông đã khích lệ người vấp ngã, ông làm cho đầu gối yếu đuối trở nên vững vàng.
\v 5 Nhưng bây giờ ông mang họa, ông nản lòng; tai họa đến với ông, ông bồn chồn.
\v 6 Lòng kính sợ Đức Chúa Trời của ông không giúp ông tự tin sao? Đường lối liêm chính của ông không đem lại cho ông niềm hy vọng sao?
\s5
\v 7 Xin ông hãy xét lại: có người vô tội nào hư vong không? Hoặc có khi nào người ngay thẳng bị diệt không?
\v 8 Theo những gì tôi thấy, kẻ vun xới tội lỗi và gieo phiền muộn đều gặt như nhau.
\v 9 Hơi thở của Đức Chúa Trời khiến họ hư mất; cơn thạnh nộ của Ngài thiêu đốt họ.
\s5
\v 10 Tiếng gầm của sư tử, tiếng của sư tử hung dữ, răng của sư tử con – chúng bị bẻ gãy.
\v 11 Sư tử già chết vì thiếu con mồi; con của sư tử cái bị tản lạc khắp nơi.
\s5
\v 12 Bấy giờ, có một chuyện đến với tôi cách bí mật; có tiếng thì thầm bên tai tôi về điều đó.
\v 13 Giữa các tư tưởng từ những khải tượng trong đêm, khi mọi người đang say giấc.
\s5
\v 14 Nỗi sợ hãi và run sợ đến trên tôi, khiến xương cốt tôi lung lay.
\v 15 Sau đó, có một thần lướt ngang qua tôi; lông tôi dựng đứng.
\s5
\v 16 Thần đó đứng yên, nhưng tôi không thấy rõ hình dạng. Một hình thể đứng trước mặt tôi; xung quanh yên ắng, và tôi nghe có tiếng nói,
\v 17 “Người phàm có thể công bình hơn Đức Chúa Trời sao? Loài người có thể trong sạch hơn Đấng Tạo hóa của nó sao?”
\s5
\v 18 Kìa, nếu Đức Chúa Trời không đặt sự tin cậy trong các tôi tớ Ngài; nếu Ngài trách các thiên sứ của Ngài về lầm lỗi,
\v 19 thì huống chi những kẻ sống trong nhà bằng đất sét, trên nền đất bụi, bị chà nát như sâu bướm?
\s5
\v 20 Giữa sáng và tối, chúng bị diệt; chúng biến mất mà không ai để ý.
\v 21 Dây lều của chúng không bị đứt sao? Chúng chết; chúng chết mà chẳng khôn ngoan.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hãy kêu la; ai sẽ trả lời ông? Ông sẽ trở lại đấng nào trong các thánh?
\v 14 thì Ngài làm tôi kinh hãi bằng những giấc mơ và khiến tôi khiếp sợ qua những khải tượng,
\v 15 để tôi sẽ chọn sự rời rạc và chết còn hơn là giữ xương cốt tôi.
\s5
\v 16 Tôi ghê tởm cuộc đời tôi; tôi sẽ không ước gì mình còn sống; xin hãy để tôi yên vì các ngày tôi là vô ích.
\v 17 Loài người là gì mà Chúa chú ý đến người, lưu ý đến người,
\v 18 quan sát người mỗi buổi sáng và thử thách người từng lúc?
\s5
\v 19 Sẽ còn bao lâu nữa trước khi Ngài xây mắt khỏi tôi, trước khi Ngài để tôi yên thân cho đến khi tôi nuốt nước bọt?
\v 20 Thậm chí nếu tôi phạm tội, thì điều đó can hệ gì đến Ngài, là Đấng quan sát loài người? Sao Ngài biến tôi thành mục tiêu, để tôi là gánh nặng cho Ngài?
\s5
\v 21 Sao Ngài không tha thứ sự vi phạm tôi và cất tội lỗi tôi đi? Vì bây giờ tôi sẽ nằm trong bụi đất; Ngài sẽ cẩn thận tìm tôi, nhưng tôi sẽ không tồn tại.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Binh-đát người Su-a trả lời,
\v 2 “Ông sẽ còn nói những điều này đến bao giờ nữa? Lời từ miệng ông sẽ như gió lốc đến chừng nào?
\v 3 Đức Chúa Trời bẻ cong chân lý sao? Đấng Toàn năng bẻ cong sự công bình sao?
\s5
\v 4 Con cái của ông đã phạm tội trước mặt Ngài; chúng ta biết điều này, vì Ngài đã phó chúng vào tội lỗi của chúng.
\v 5 Nhưng giả sử ông sốt sắng tìm kiếm Đức Chúa Trời và trình lời cầu xin của ông cho Đấng Toàn năng.
\s5
\v 6 Giả sử ông trong sạch và ngay thẳng; thì chắc chắn Ngài sẽ giải cứu ông và ban thưởng cho ông một gia đình thật sự thuộc về ông.
\v 7 Thậm chí dù khởi đầu của ông là nhỏ, nhưng tương lai ông vẫn sẽ rạng rỡ.
\s5
\v 8 Xin ông hãy học hỏi thế hệ xưa; tìm hiểu những gì tổ phụ chúng ta đã khám phá.
\v 9 (Hôm qua chúng ta mới sinh ra và chẳng biết gì, những ngày của chúng ta trên đất như bóng tối).
\v 10 Họ không dạy ông và nói cho ông nghe sao? Họ không nói những lời trong lòng sao?
\s5
\v 11 Cây lau có thể mọc nơi không phải đầm lầy sao? Cây sậy có thể lớn lên mà không cần nước sao?
\v 12 Khi chúng vẫn còn xanh tươi và chưa bị chặt, chúng tàn héo trước mọi thực vật khác.
\s5
\v 13 Số phận của kẻ quên Đức Chúa Trời cũng sẽ như vậy, niềm hy vọng của kẻ vô đạo sẽ tàn lụi –
\v 14 lòng tin cậy của họ sẽ tan vỡ, lòng trông cậy của họ yếu như mạng nhện.
\v 15 Người ấy dựa vào nhà mình, nhưng không đứng vững; họ bám giữ nó, nhưng không bền lâu.
\s5
\v 16 Dưới ánh mặt trời, nó xanh tươi, nó đâm chồi trong khắp vườn.
\v 17 Rễ nó quấn trên đống đá; chúng len lỏi giữa đá sỏi.
\v 18 Nhưng nếu cây bị bứng khỏi chỗ của nó, nơi đó sẽ từ chối nó và nói, ‘Ta chưa bao giờ gặp ngươi.’
\s5
\v 19 Kìa, đây là “niềm vui” của người có hành vi đó; cây khác sẽ đâm chồi từ đất của nó.
\v 20 Kìa, Đức Chúa Trời sẽ không bỏ người trọn vẹn; Ngài sẽ không phù hộ tay của kẻ làm ác.
\s5
\v 21 Nhưng Ngài sẽ khiến miệng ông đầy tiếng cười, môi ông vang tiếng reo mừng.
\v 22 Những kẻ ghét ông sẽ mặc lấy sự xấu hổ; lều của kẻ ác sẽ tiêu tan.”
\s5
\c 9
\p
\v 1 Gióp trả lời rằng,
\v 2 “Phải, tôi biết là vậy. Nhưng làm sao loài người có thể công bình trước mặt Đức Chúa Trời?
\v 3 Nếu người muốn tranh luận với Đức Chúa Trời, người cũng không thể đáp lại Ngài một ngàn lần.
\s5
\v 4 Đức Chúa Trời có trí khôn và sức mạnh; ai cứng cỏi trước mặt Ngài để thành công? –
\v 5 Ngài dời núi mà không cảnh báo bất kỳ ai, trong cơn giận Ngài lật đổ chúng –
\v 6 Ngài là Đấng làm rúng động trái đất khỏi chỗ nó và các trụ nó rung rinh.
\s5
\v 7 Chính Đức Chúa Trời truyền mặt trời không mọc, nó không mọc, Đấng bao phủ các ngôi sao,
\v 8 một mình Ngài giương các từng trời, giẫm lên sóng biển,
\v 9 Ngài dựng nên Sao Bắc đẩu, Sao Cày, và Sao Rua, cùng những chòm sao phương nam.
\s5
\v 10 Chính Đức Chúa Trời là Đấng làm những việc lớn lao, khó hiểu – thật vô số những việc phi thường.
\v 11 Kìa, Ngài đi cạnh tôi, tôi không thấy Ngài; Ngài lướt ngang qua, tôi cũng không thấy Ngài.
\v 12 Nếu Ngài cất mạng ai, ai có thể ngăn nổi Ngài? Ai dám hỏi Ngài, ‘Chúa làm gì vậy?’
\s5
\v 13 Chúa Trời sẽ không rút cơn giận của Ngài; những người giúp đỡ Ra-háp quỳ dưới chân Ngài.
\v 14 Làm sao tôi có thể trả lời Ngài, tôi có thể lựa lời biện luận với Ngài không?
\v 15 Thậm chí nếu tôi công bình, tôi cũng không thể trả lời Ngài; tôi chỉ có thể nài xin sự thương xót của Đấng phán xét tôi.
\s5
\v 16 Thậm chí nếu tôi kêu cầu và Ngài đáp lời tôi, tôi sẽ không tin là Ngài nghe tiếng tôi.
\v 17 Vì Ngài vùi dập tôi bằng giông tố và vô cớ gia tăng vết thương tôi.
\v 18 Ngài thậm chí không cho phép tôi thở; trái lại, Ngài lấp đầy tôi bằng sự đắng cay.
\v 5 Nhưng Đức Chúa Trời sẽ mở miệng phán với ông;
\v 6 ước gì Ngài tỏ cho ông thấy những điều kín nhiệm của sự khôn ngoan! Vì Ngài thông hiểu tường tận. Vậy hãy biết rằng điều Đức Chúa Trời bắt ông phải chịu thật ít hơn tội của ông đáng bị phạt là bao.
\s5
\v 7 Ông có thể nào hiểu Đức Chúa Trời bằng cách tìm kiếm Ngài không? Ông có thể hiểu Đấng Toàn năng tường tận không?
\v 8 Vấn đề này cao hơn thiên đàng; ông có thể làm gì? Nó sâu hơn âm phủ; ông có thể biết gì?
\v 9 Phạm vi của nó dài hơn trái đất, và rộng hơn biển cả.
\s5
\v 10 Nếu Ngài đi qua và bắt giam ai đó, nếu Ngài đoán xét bất kỳ ai, thì ai có thể ngăn Ngài lại?
\v 11 Vì Ngài biết người giả dối; khi Ngài nhìn thấy tội lỗi, lẽ nào Ngài không để ý chăng?
\v 12 Nhưng người dại dột không hiểu; họ sẽ hiểu khi con lừa rừng đẻ ra người.
\s5
\v 13 Nhưng giả sử ông đã để lòng ngay thẳng và giơ tay ra hướng về Đức Chúa Trời;
\v 14 giả sử tội lỗi ở trong tay ông, nhưng sau đó ông bỏ xa khỏi ông quăng xa đi, và không để sự trái lẽ cư ngụ trong lều ông.
\s5
\v 15 Chắc chắn ông sẽ ngẩng mặt lên mà không thấy xấu hổ; thật vậy, ông sẽ vững vàng và không sợ hãi.
\v 16 Ông sẽ quên sự khổ sở của mình; ông sẽ nhớ nó như nước đã chảy qua.
\v 17 Cuộc đời ông sẽ tươi sáng hơn ban trưa; dù có bóng tối, nó vẫn sẽ như ban ngày.
\s5
\v 18 Ông sẽ được yên ninh vì có hy vọng; thật vậy, ông sẽ thấy mình được an toàn và nghỉ ngơi trong sự yên ninh.
\v 19 Ông cũng sẽ nằm xuống yên nghỉ, và không ai khiến ông sợ hãi; thật vậy, nhiều người sẽ tìm ơn của ông.
\s5
\v 20 Nhưng mắt của kẻ ác sẽ yếu dần; chúng sẽ không còn lối nào để chạy thoát; niềm hy vọng duy nhất của chúng sẽ là hơi thở cuối cùng.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Gióp trả lời rằng,
\v 2 “Các ông đúng là phàm nhân; sự khôn ngoan sẽ chết với các ông.
\v 3 Nhưng tôi cũng có sự thông hiểu như các ông; tôi chẳng hề kém hơn các ông. Thật vậy, ai không biết những việc này chứ?
\s5
\v 4 Tôi trở thành trò cười cho bạn bè tôi – tôi đã kêu cầu Đức Chúa Trời và được Ngài trả lời! Tôi, một người công chính và trọn vẹn – bây giờ trở thành trò cười.
\v 5 Người thanh thản khinh bỉ điều tai họa; người cho rằng tai họa giáng xuống ai trượt chân.
\v 6 Lều của kẻ trộm cướp thịnh vượng, kẻ trêu chọc Đức Chúa Trời thì cảm thấy an toàn; tay của chúng là thần của chúng.
\s5
\v 7 Nhưng bây giờ hãy hỏi loài thú, chúng sẽ dạy các ông; hãy hỏi loài chim trời, chúng sẽ cho các ông biết.
\v 8 Hoặc hãy nói với trái đất, nó sẽ dạy các ông; cá biển sẽ tỏ cho các ông biết.
\s5
\v 9 Có loài nào trong số những loài này không biết rằng tay của Đức Giê-hô-va đã làm việc này – tức là ban sự sống cho chúng –
\v 10 Đức Giê-hô-va, là Đấng nắm trong tay sự sống của mọi loài vật và hơi thở của con người?
\s5
\v 11 Tai không kiểm chứng lời như miệng nếm thức ăn sao?
\v 12 Người cao tuổi có sự khôn ngoan; sự thông hiểu nằm trong bề dài các ngày ấy.
\s5
\v 13 Đức Chúa Trời có sự khôn ngoan và sức mạnh; Ngài có tư tưởng và sự thông biết tốt lành.
\v 14 Kìa, điều gì Ngài bẻ thì không thể được dựng lại; nếu Ngài bỏ tù ai, thì người đó không thể được giải cứu.
\v 15 Kìa, nếu Ngài giữ nước lại, đất sẽ khô hạn; nếu Ngài thả nước ra, nước sẽ tràn khắp đất.
\s5
\v 16 Ngài có sức mạnh và mưu trí; kẻ bị lừa dối và kẻ lừa dối đều ở dưới quyền Ngài.
\v 17 Ngài dẫn các cố vấn đi tù đày bằng chân không trong sự ưu sầu; Ngài biến các quan tòa thành người ngu dại.
\v 18 Ngài tháo đai quyền lực khỏi các vua; Ngài quấn vải quanh eo họ.
\s5
\v 19 Ngài dẫn các thầy tế lễ đi tù đày chân không trong sự ưu sầu và ném kẻ mạnh sức.
\v 20 Ngài loại bỏ lời nói của những người đáng tin và cất đi sự thông hiểu của các trưởng lão.
\v 21 Ngài đổ sự khinh miệt trên các vương tử và tháo dây lưng của người mạnh sức.
\s5
\v 22 Ngài bày tỏ những điều sâu nhiệm từ bóng tối và phơi bày dưới ánh sáng bóng của tử thần.
\v 23 Ngài làm cho các nước mạnh mẽ, Ngài cũng hủy diệt chúng; Ngài nới rộng các nước, rồi Ngài cũng bắt chúng lưu vong.
\s5
\v 24 Ngài cất sự thông hiểu khỏi những nhà lãnh đạo dân tộc trên thế gian; Ngài khiến họ lang thang trong hoang mạc không lối thoát.
\v 25 Họ mò mẫm trong bóng tối mà chẳng có ánh sáng; Ngài khiến họ đi loạng choạng như kẻ say.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Kìa, mắt tôi đã thấy điều ấy; tai tôi đã nghe và hiểu.
\v 2 Điều các ông biết, tôi cũng biết; tôi chẳng thua kém gì các ông.
\s5
\v 3 Tuy nhiên, tôi thà thưa với Đấng Toàn năng; tôi ước gì mình có thể lý luận với Đức Chúa Trời.
\v 4 Nhưng các ông thanh minh sự thật bằng lời dối trá; các ông là những thầy thuốc vô dụng.
\v 5 Ôi, ước gì các ông cứ nín lặng! Đó mới là sự khôn ngoan của các ông.
\s5
\v 6 Bây giờ hãy nghe lập luận của tôi; hãy nghe lời bào chữa của môi tôi.
\v 7 Các ông sẽ nói lời bất công với Đức Chúa Trời, và bịa chuyện về Ngài sao?
\v 8 Các ông muốn thiên vị Ngài sao? Các ông muốn làm luật sư bào chữa cho Đức Chúa Trời tại tòa sao?
\s5
\v 9 Nếu Ngài làm quan tòa dò xét các ông thì việc đó tốt cho các ông chứ? Hay các ông sẽ xuyên tạc Ngài tại tòa như người ta lừa dối lẫn nhau sao?
\v 10 Chắc chắn Ngài sẽ trách phạt các ông nếu các ông âm thầm thiên vị Ngài.
\s5
\v 11 Sự oai nghi của Ngài không khiến các ông sợ hãi sao? Sự kinh sợ Ngài sẽ không giáng trên các ông sao?
\v 12 Châm ngôn của các ông như tục ngữ bằng tro bụi; lời biện hộ của các ông như là lời biện hộ làm bằng đất sét.
\s5
\v 13 Hãy yên lặng, hãy để tôi yên, để mặc tôi nói, rồi điều gì đến cũng sẽ đến.
\v 14 Tôi sẽ lấy răng cắn thịt mình; tôi sẽ giữ mạng sống trong tay tôi.
\v 15 Kìa, nếu Ngài giết tôi, tôi sẽ chẳng còn hy vọng gì nữa; tuy nhiên, tôi sẽ bảo vệ đường lối tôi trước mặt Ngài.
\s5
\v 16 Đây sẽ là lý do cho sự tha tội tôi, rằng tôi không đến trước mặt Ngài như một người vô đạo.
\v 17 Lạy Đức Chúa Trời, xin cẩn thận lắng nghe lời con; xin nghe lời tuyên bố của con.
\s5
\v 18 Bây giờ, tôi đã chuẩn bị sẵn lời biện hộ; tôi biết mình vô tội.
\v 19 Ai dám tranh luận với tôi trước tòa? Nếu Ngài đến tranh luận, và nếu Ngài chứng minh là tôi sai, thì tôi sẽ im lặng và giao phó mạng sống tôi cho Ngài.
\s5
\v 20 Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài chỉ làm hai điều cho con, sau đó con sẽ không ẩn mặt khỏi Ngài;
\v 21 xin Chúa rút tay nặng trĩu của Ngài khỏi con, và xin đừng để sự khiếp sợ Ngài khiến con sợ hãi.
\v 22 Xin Chúa gọi con, con sẽ trả lời; hoặc cho con nói với Ngài, rồi Ngài trả lời con.
\s5
\v 23 Con đã phạm bao nhiêu lỗi lầm và tội lỗi? Xin cho con biết sự vi phạm và tội lỗi con.
\v 24 Sao Chúa ẩn mặt khỏi con và xem con như kẻ thù của Ngài?
\v 25 Ngài sẽ hành hạ chiếc lá bị gió đưa đi? Ngài sẽ đuổi theo cọng rơm khô?
\s5
\v 26 Vì Ngài ghi lại những điều con cay đắng; Ngài bắt con gánh những tội lỗi của thời thơ ấu.
\v 27 Ngài cũng đặt chân con vào cùm; Ngài cẩn thận xem xét đường lối con; Ngài ghi dấu nơi chân con đến
\v 28 dù con giống như thứ mục nát tan tành, như chiếc áo bị sâu ăn.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Loài người do người nữ sinh ra, chỉ sống tạm vài ngày và lòng đầy phiền muộn.
\v 2 Người như hoa nảy mầm từ đất rồi bị chặt đi; người như bóng tối và chẳng ở lại lâu.
\v 3 Ngài có xem những điều này không? Ngài có đem con ra để xét xử không?
\s5
\v 4 Ai có thể đem đến thứ gì trong sạch từ trong sự ô uế? Chẳng ai cả.
\v 5 Các ngày của loài người đã được định đoạt; Ngài biết rõ số các tháng trong đời người; Ngài đã lập giới hạn để người không thể vượt qua.
\v 6 Xin Chúa ngoảnh mặt khỏi người để người nghỉ ngơi, tận hưởng ngày của mình như người làm công nếu có thể được.
\s5
\v 7 Cây cối có thể hy vọng; nếu bị chặt, nó có thể lại đâm chồi, nhánh non của nó sẽ chẳng ngừng vươn ra.
\v 8 Dù rễ cây già cỗi dưới đất, và gốc cây chết trong cát bụi,
\v 9 nhưng nếu có ít nước, cây sẽ nảy chồi và đâm nhánh như cây non.
\s5
\v 10 Nhưng loài người chết; tan biến; thật vậy, người tắt thở, rồi người về đâu?
\v 11 Như nước bốc hơi khỏi hồ, sông cạn nước và khô queo,
\v 12 loài người cũng nằm xuống và không thức dậy nữa. Cho đến khi các từng trời chẳng còn nữa, họ sẽ không thức dậy cũng không được kêu dậy.
\s5
\v 13 Ôi, ước gì Chúa giấu con khỏi những điều phiền muộn ở âm phủ, ước gì Ngài giữ con khuất nẻo cho đến khi Ngài nguôi giận, ước gì Ngài định hạn cho con rồi hãy nhớ đến con!
\v 14 Nếu người phàm chết thì làm sao sống lại? Nếu vậy, con vẫn đợi chờ thời gian mệt nhọc đến khi con được giải cứu.
\s5
\v 15 Chúa sẽ gọi, con sẽ trả lời. Ngài mong chờ công việc của tay Ngài.
\v 16 Ngài sẽ đếm và quan tâm những bước chân của con; Ngài sẽ không ghi nhớ tội lỗi con.
\v 17 Sự vi phạm của con sẽ được niêm phong trong một cái túi; Ngài sẽ khỏa lấp tội lỗi con.
\s5
\v 18 Nhưng thậm chí núi non sụp đổ và chẳng còn lại gì; ngay cả đá bị dời khỏi chỗ nó;
\v 19 nước chảy đá mòn; nước lụt cuốn đi bụi đất trên thế gian. Cũng vậy, Ngài phá hủy niềm hy vọng của con người.
\s5
\v 20 Ngài luôn đánh bại người, người qua đời; Ngài biến đổi diện mạo người và đuổi người đi.
\v 21 Các con trai người được tôn kính, nhưng người chẳng biết; họ có thể bị hạ xuống, nhưng người không hay.
\v 22 Người chỉ cảm biết nỗi đau của thân mình, và người than khóc cho chính mình.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Ê-li-pha người Tê-man trả lời,
\v 2 “Người khôn ngoan nên trả lời bằng tri thức vô dụng và lấp đầy mình bằng gió đông sao?
\v 3 Người lý luận bằng lời vô bổ hay bằng cách nói vô giá trị sao?
\s5
\v 4 Thật vậy, ông giảm lòng tôn trọng Đức Chúa Trời; ông cản trở người ta tỏ lòng thành tâm với Ngài,
\v 5 vì tội lỗi ông xui miệng ông; ông chọn lưỡi của người xảo trá.
\v 6 Miệng ông lên án ông, chứ không phải miệng tôi; thật vậy, môi ông làm chứng nghịch lại ông.
\s5
\v 7 Ông là người đầu tiên được sinh ra sao? Ông đã hiện hữu trước khi có núi đồi sao?
\v 8 Ông đã nghe về tri thức kín nhiệm của Đức Chúa Trời chưa? Chỉ một mình ông khôn ngoan sao?
\v 9 Có điều gì ông biết mà chúng tôi không biết? Có điều gì ông hiểu mà chúng tôi không hiểu?
\s5
\v 10 Trong số chúng tôi có người tóc bạc và người già cả, tuổi tác lớn hơn cha của ông.
\v 11 Có phải lời an ủi của Đức Chúa Trời quá nhỏ đối với ông, tức là những lời lẽ nhẹ nhàng đối với ông?
\s5
\v 12 Sao lòng ông bấn loạn? Tại sao mắt ông long lên sòng sọc,
\v 13 đến nỗi ông xây lòng khỏi Chúa và thốt ra những lời ấy?
\v 14 Loài người là chi mà Ngài phải làm cho thanh sạch? Người phàm được người nữ sinh ra là chi mà lại công bình?
\s5
\v 15 Kìa, Đức Chúa Trời thậm chí không tin các thánh của Ngài; thật vậy, các từng trời không trong sạch trước mặt Ngài;
\v 16 huống chi người xấu xa và đồi bại, là người uống tội lỗi như uống nước, thì làm sao trong sạch được!
\s5
\v 17 Tôi sẽ dạy ông; hãy nghe tôi; tôi sẽ nói với ông về những việc tôi đã thấy,
\v 18 những việc mà người khôn ngoan đã truyền lại từ tổ phụ họ, những việc mà tổ phụ họ không giấu giếm.
\s5
\v 19 Các tổ phụ ấy là người đã được ban đất đai, và không có khách lạ nào ở giữa họ.
\v 20 Kẻ gian ác dằn vặt đau đớn trọn đời mình, số các năm được dành cho kẻ đàn áp.
\v 21 Tai nó nghe tiếng kinh hãi đang khi nó sống thịnh vượng, kẻ hủy diệt sẽ đến trên nó.
\s5
\v 22 Nó không nghĩ rằng nó thoát khỏi sự tối tăm; gươm giáo chờ nó.
\v 24 Tai họa và nỗi thống khổ khiến nó sợ hãi; chúng lấn át nó, như vua sẵn sàng ra trận.
\s5
\v 25 Vì nó đã giơ tay nghịch lại Đức Chúa Trời và cư xử ngạo mạn với Đấng Toàn năng,
\v 26 kẻ gian ác ấy xông vào Đức Chúa Trời, cổ ngước thẳng và tay cầm khiên dày.
\s5
\v 27 Đúng vậy, dù nó lấy mỡ che mặt và làm căng hông,
\v 28 nó sẽ sống trong các thành hoang phế; trong nhà cửa bỏ hoang và sắp đổ nát.
\s5
\v 29 Nó sẽ không giàu; sự giàu sang của nó sẽ chẳng còn bao lâu; ngay cả bóng của nó cũng sẽ không kéo dài trên đất.
\v 30 Nó sẽ không thoát khỏi bóng tối; lửa sẽ thiêu rụi nhánh của nó; hơi thở từ miệng Chúa sẽ cuốn nó đi xa.
\s5
\v 31 Ước gì nó đừng tin cậy vào sự vô ích, tự lừa dối mình; vì sự vô ích sẽ là phần thưởng của nó.
\v 32 Việc đó sẽ xảy đến trước khi nó hết kỳ hạn; nhánh nó sẽ không xanh tươi.
\v 33 Nó sẽ như trái nho non bị rụng; nó sẽ không ra hoa như cây ô-liu.
\s5
\v 34 Vì hội của kẻ vô đạo sẽ không sinh sản; lửa sẽ thiêu đốt lều của bọn hối lộ.
\v 35 Chúng thụ thai việc ác và sinh ra điều tàn bạo; lòng dạ chúng thai nghén sự giả dối.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Tôi đã nghe những lời như vậy rồi; tất cả các ông đều là những người an ủi đáng thương.
\v 3 Bao giờ mới dứt lời vô dụng? Các ông gặp chuyện gì đến nỗi trả lời tôi như vậy?
\s5
\v 4 Tôi cũng có thể nói như các ông, nếu các ông ở trong hoàn cảnh tôi; tôi có thể suy luận và dùng lời lẽ để nói nghịch các ông và lắc đầu nhạo báng các ông.
\v 5 Ôi, ước gì tôi dùng miệng mình mà khuyến khích các ông! Ước gì lời an ủi từ môi tôi sẽ làm nhẹ nỗi sầu khổ của các ông!
\s5
\v 6 Nếu tôi nói, nỗi sầu khổ của tôi chẳng giảm đi; nếu tôi cứ nói, làm sao tôi được giúp đỡ?
\v 7 Nhưng bây giờ, lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã khiến con mệt mỏi; Ngài đã khiến cả gia đình con tan hoang.
\v 8 Ngài đã khiến con khô cằn, việc này làm chứng nghịch lại con; thân thể gầy còm tố cáo con.
\s5
\v 9 Đức Chúa Trời xâu xé tôi trong cơn thạnh nộ và nghịch tôi; Ngài nghiến răng nghịch tôi; kẻ thù tôi trừng mắt nhìn tôi khi Ngài xé xác tôi.
\v 10 Người ta há miệng nghịch tôi; họ vả má tôi một cách khinh thị; họ tụ họp nghịch lại tôi.
\s5
\v 11 Chúa Trời phó tôi vào tay người vô đạo; Ngài quăng tôi vào tay kẻ gian ác.
\v 12 Tôi đang sống thanh thản, Ngài bẻ tôi. Thật vậy, Ngài túm cổ tôi và đập tôi tan nát; Ngài cũng biến tôi thành bia đỡ đạn.
\s5
\v 13 Các cung thủ của Ngài vây quanh tôi; Chúa đâm thận tôi và không tha tôi; Ngài đổ mặt tôi xuống đất.
\v 14 Ngài đập tôi tơi tả; Ngài xông đánh tôi như một chiến binh.
\s5
\v 15 Tôi đã may áo tang trên da tôi; tôi ấn sừng tôi xuống đất.
\v 16 Mặt tôi sưng đỏ vì khóc; trên mi mắt tôi là bóng của sự chết
\v 17 dù tay tôi chẳng làm điều bạo lực, lời cầu nguyện của tôi tinh sạch.
\s5
\v 18 Hỡi trái đất, chớ lấp huyết tôi; chớ để lời kêu than của tôi được ngưng lại.
\v 19 Ngay cả bây giờ, kìa, Đấng làm chứng của tôi ở trên thiên đàng; Đấng bào chữa tôi ngự trên cao.
\s5
\v 20 Bạn bè tôi chế nhạo tôi, nhưng tôi hướng về Chúa mà khóc.
\v 21 Ước gì Ngài làm chứng tôi với Đức Chúa Trời như loài người làm chứng với nhau!
\v 22 Vì sau một vài năm nữa, tôi sẽ đến nơi mà tôi sẽ chẳng trở về.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Tinh thần con hao mòn, các ngày con qua đi; mồ mả đang đợi con.
\v 2 Chắc chắn bọn chế nhạo vây quanh con; mắt con luôn thấy sự khiêu khích của chúng.
\v 3 Xin ban cho con chứng cớ, xin Ngài bảo lãnh con; còn ai sẽ giúp đỡ con nữa?
\s5
\v 4 Lạy Chúa, vì Ngài đã ngăn lòng họ khỏi sự hiểu biết; vì vậy, Ngài sẽ không nhấc họ lên cao hơn con.
\v 5 Kẻ nào tố giác bạn bè mình để nhận thưởng, mắt của con cái hắn sẽ hao mòn.
\s5
\v 6 Nhưng Ngài khiến con trở thành tục ngữ của thiên hạ, chúng nhổ vào mặt con.
\v 7 Mắt con cũng đã lờ đờ vì buồn thảm; toàn thân con rã rời như bóng đêm.
\v 8 Người ngay thẳng sẽ sửng sốt về việc này; người vô tội sẽ phẫn nộ kẻ vô đạo.
\s5
\v 9 Người công bình sẽ giữ vững đường lối mình; ai có tay trong sạch sẽ càng thêm mạnh mẽ.
\v 10 Nhưng các ông hãy đến đây; tôi sẽ không tìm được một ai khôn ngoan trong số các ông.
\s5
\v 11 Các ngày của tôi đã qua, kế hoạch của tôi đổ vỡ, ngay cả ước muốn trong lòng tôi cũng vậy.
\v 12 Những người này, những kẻ chế giễu, biến đêm thành ngày; họ nói ánh sáng gần với bóng tối.
\s5
\v 13 Bởi chưng tôi xem âm phủ như nhà mình; vì tôi trải giường trong bóng tối;
\v 11 Sự tối tăm bao trùm làm ông không thể thấy; nước nhấn chìm ông.
\s5
\v 12 Đức Chúa Trời không ngự ở nơi cao trên trời sao? Hãy nhìn xem bề cao của các vì sao, chúng thật cao biết mấy!
\v 13 Ông nói, ‘Đức Chúa Trời có thể biết gì? Ngài có thể xét xử qua bóng tối mịt mùng sao?
\v 14 Các đám mây mù che mắt Ngài nên Ngài không thấy chúng ta; Ngài bước trên vòm trời.’
\s5
\v 15 Ông sẽ giữ lối cũ mà kẻ ác đã đi –
\v 16 những kẻ bị lôi đi trước giờ định, nền tảng của chúng trôi theo sông,
\v 17 chúng thưa với Chúa, ‘Xin rời khỏi chúng con’; chúng nói, ‘Đấng Toàn năng có thể làm gì cho chúng tôi?’
\s5
\v 18 Tuy nhiên Ngài ban cho nhà chúng đầy những vật tốt; mưu của kẻ ác xa với tôi lắm.
\v 19 Người công bình thấy sự hủy diệt của chúng và cảm thấy vui; người vô tội nhạo báng chúng.
\v 20 Họ nói, “Chắc chắn kẻ thù nghịch chúng ta sẽ chết; lửa thiêu nuốt gia tài của chúng.’
\s5
\v 21 Bây giờ, hãy hòa thuận với Đức Chúa Trời và sống yên ổn với Ngài; như vậy, sự tốt lành sẽ lại đến với ông.
\v 22 Tôi xin ông hãy nghe lời dạy dỗ từ miệng Ngài; hãy giấu lời Ngài trong lòng ông.
\s5
\v 23 Nếu ông trở lại cùng Đấng Toàn năng, ông sẽ được phục hồi, nếu ông đem sự bất chính ra khỏi lều mình.
\v 24 Hãy để báu vật của ông xuống bụi đất, và vàng Ô-phia giữa các hòn đá ở khe,
\v 25 thì Đấng Toàn năng sẽ là kho báu của ông, là bạc quý của ông.
\s5
\v 26 Bấy giờ ông sẽ vui mừng nơi Đấng Toàn năng; ông sẽ ngẩng mặt nhìn lên Đức Chúa Trời.
\v 27 Ông sẽ khẩn nguyện Ngài, Ngài sẽ nghe ông; ông sẽ làm trọn lời thề ước với Ngài.
\v 28 Ông cũng sẽ quyết định bất cứ điều gì, điều đó sẽ được ban cho ông; ánh sáng sẽ chiếu trên đường lối ông.
\s5
\v 29 Đức Chúa Trời hạ thấp người kiêu ngạo, Ngài cứu những người khiêm nhường.
\v 30 Ngài sẽ cứu người vô tội; ông sẽ được cứu bởi tay tinh sạch của ông.”
\s5
\c 23
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Ngay cả hôm nay lời than phiền của tôi cay đắng; sự đau khổ của tôi nặng hơn tiếng tôi rên rỉ.
\s5
\v 3 Ôi, ước gì tôi biết phải tìm Ngài ở đâu! Ôi, ước gì tôi đến nơi ở của Ngài!
\v 4 Tôi sẽ trình duyên cớ của tôi trước mặt Ngài và tranh luận với Ngài.
\v 5 Tôi sẽ biết những lời Ngài trả lời tôi và hiểu lời Ngài nói với tôi.
\s5
\v 6 Ngài sẽ tranh luận với tôi bằng quyền năng lớn lao của Ngài sao? Không, Ngài sẽ để ý đến tôi.
\v 7 Người ngay thẳng có thể tranh luận với Ngài. Như vậy, tôi sẽ được thoát khỏi tay người đoán xét tôi đời đời.
\s5
\v 8 Kìa, tôi tới phía đông, nhưng Ngài không có ở đó, tôi đi về phía tây, nhưng chẳng thấy Ngài.
\v 9 Tôi tới phía bắc, là nơi Ngài đang làm việc, nhưng không gặp Ngài, và về phía nam, là nơi Ngài ẩn mình nhưng tôi cũng chẳng thấy Ngài.
\s5
\v 10 Tuy nhiên Ngài biết đường tôi đi; khi Ngài thử tôi, tôi sẽ ra như vàng.
\v 11 Chân tôi bám theo bước Ngài; tôi đi theo đường lối Ngài và chẳng đi sai lệch.
\v 12 Tôi không từ bỏ điều răn từ môi Ngài; tôi đã giấu lời Ngài trong lòng tôi.
\s5
\v 13 Nhưng Ngài đã quyết định, ai có thể lay chuyển Ngài? Điều Ngài muốn, Ngài sẽ làm.
\v 14 Vì Ngài thực hiện những gì Ngài định cho tôi; với nhiều điều tương tự.
\s5
\v 15 Do đó, tôi kinh sợ trước mặt Ngài; khi nghĩ về Ngài, tôi khiếp sợ Ngài.
\v 16 Vì Đức Chúa Trời khiến lòng tôi bủn rủn; Đấng Toàn năng làm tôi khiếp sợ.
\v 17 Tôi không bị bóng tối che khuất, bóng đêm dày đặc cũng không che phủ mặt tôi.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Sao Đấng Toàn năng không định thời hạn đoán xét kẻ ác? Sao những người trung tín với Đức Chúa Trời không thấy ngày đoán xét ấy?
\s5
\v 2 Có những kẻ ác dời mốc địa giới; có những kẻ ác cướp bầy súc vật và dẫn vào đồng cỏ của chúng.
\v 3 Chúng đuổi lừa của người mồ côi cha; chúng lấy bò đực của góa phụ làm của cầm.
\v 4 Chúng đuổi người thiếu thốn ra khỏi đường lối chính đáng; người nghèo trong xứ ẩn tránh chúng.
\s5
\v 5 Kìa, người nghèo nai lưng làm lụng như lừa hoang nơi hoang mạc, cẩn thận tìm thức ăn; có lẽ hoang mạc A-ra-ba sẽ cung cấp thức ăn cho họ và con cái họ.
\v 6 Người nghèo gặt ở đồng ruộng người khác vào ban đêm; họ mót nho từ vụ thu hoạch của kẻ ác.
\v 7 Họ nằm mình trần suốt đêm không quần áo; họ không có mền đắp khi trời lạnh.
\s5
\v 8 Họ bị ướt vì mưa trên núi; họ núp bên những tảng đá lớn vì họ không có chỗ trú.
\v 9 Có kẻ ác giật trẻ mồ côi khỏi bầu sữa của mẹ, và kẻ ác bắt con thơ của người nghèo làm tin.
\v 10 Nhưng người nghèo đi khắp nơi mình trần không quần áo; dù họ đói nhưng phải vác những bó lúa của người khác.
\s5
\v 11 Người nghèo ép dầu trong vựa của kẻ ác; họ đạp nho trong của kẻ ác nhưng chính họ khổ vì khát.
\v 12 Trong thành, người ta rên rỉ; kẻ bị thương kêu la, nhưng Đức Chúa Trời chẳng ngó ngàng gì đến lời cầu nguyện của họ.
\s5
\v 13 Một số kẻ ác chống lại ánh sáng; chúng không biết lối đi, cũng không ở trong đường lối ấy.
\v 14 Kẻ ám sát thức dậy từ sáng; hắn giết người nghèo và người khốn cùng; ban đêm hắn như kẻ trộm.
\v 16 Trong đêm tối, kẻ ác khoét vách vào nhà; nhưng ban ngày chúng ẩn nấp, chúng không quan tâm đến ánh sáng.
\v 17 Vì đối với chúng nó, buổi sáng cũng như đêm tối mịt; chúng quen thuộc với nỗi kinh hãi của bóng tối.
\s5
\v 18 Tuy nhiên, chúng nhanh chóng tan biến như bọt tan trên mặt nước; phần đất của chúng bị rủa sả; không ai làm việc trong vườn nho của chúng.
\v 19 Hạn hán và sức nóng làm tan nước tuyết; âm phủ cũng thiêu nuốt những kẻ phạm tội.
\s5
\v 20 Tử cung đã sanh nó sẽ quên nó; giòi bọ sẽ ăn thịt nó; nó sẽ chẳng còn được ai nhớ nữa; như vậy, sự gian ác sẽ đổ như cây cối.
\v 21 Kẻ ác cắn xé phụ nữ hiếm muộn; nó đối xử tệ với góa phụ.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Đức Chúa Trời dùng sức mạnh Ngài tiêu diệt kẻ cường thạnh; Ngài trỗi dậy và chẳng ban thêm sức mạnh cho chúng.
\v 23 Chúa cho chúng an toàn, và chúng vui về điều đó, nhưng mắt Ngài dõi theo con đường của chúng.
\s5
\v 24 Những kẻ này được tôn lên; chỉ trong chốc lát chúng sẽ tan biến; thật vậy, chúng sẽ bị hạ thấp; chúng sẽ bị gom lại như bao kẻ khác; chúng sẽ bị cắt như ngọn gié lúa.
\v 25 Nếu chẳng phải vậy, ai có thể chứng minh tôi là người dối trá; ai có thể khiến lời nói của tôi ra vô ích?”
\s5
\c 25
\p
\v 1 Binh-đát người Su-a trả lời,
\v 2 “Quyền thế và sự sợ hãi thuộc về Ngài; Ngài thiết lập trật tự ở các nơi cao trên trời.
\v 3 Ai đếm được số đạo quân của Ngài? Ai tránh được ánh sáng của Ngài?
\s5
\v 4 Vậy làm sao người phàm có thể được Đức Chúa Trời xưng công bình? Làm sao con người do người nữ sanh ra có thể trong sạch, được Ngài chấp nhận?
\v 5 Kìa, ngay cả mặt trăng cũng không đủ sáng; các ngôi sao cũng không trong sạch trước mặt Ngài.
\v 6 Huống hồ gì con người, là loài sâu bọ - con cái loài người, một loài sâu bọ!”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Các ông thật khéo giúp người cô thế! Các ông thật khéo giải cứu cánh tay không có sức mạnh!
\v 3 Các ông thật khéo khuyên giải người thiếu sự khôn ngoan và công bố tri thức đúng đắn!
\v 4 Nhờ sự giúp đỡ của ai mà các ông nói những lời này? Thần khí nào đã ra từ các ông?”
\s5
\v 5 Binh-đát trả lời, “Những người đã chết, những vong hồn, đều run rẩy, những cư dân dưới nước.
\v 6 Âm phủ trơ trụi trước mặt Đức Chúa Trời; sự diệt vong không được che phủ trước mặt Ngài.
\s5
\v 7 Ngài trải phương bắc trên vùng trống và treo trái đất trên cõi không trung.
\v 8 Ngài ngăn nước trong những đám mây dày đặc, nhưng mây không bị xé toạc bởi nước.
\s5
\v 9 Ngài bao phủ mặt trăng và trải mây của Ngài trên nó.
\v 10 Ngài khắc một vòm tròn trên bề mặt nước như đường ranh giữa ánh sáng và bóng tối.
\s5
\v 11 Các trụ trên trời rúng động và kinh ngạc trước sự quở trách của Ngài.
\v 12 Bởi quyền năng Ngài, Ngài khiến biển yên lặng; bởi sự hiểu biết của Ngài, Ngài đánh vỡ Ra-háp.
\s5
\v 13 Bởi hơi thở Ngài, Ngài xóa những cơn bão khỏi bầu trời; các từng trời không còn bóng dáng của bão; tay Ngài đâm thủng con rắn đang bỏ chạy.
\v 14 Kìa, đây chỉ là cái nhìn thoáng qua về đường lối Ngài; tiếng thì thầm chúng ta nghe về Ngài thật nhỏ bé! Ai có thể hiểu tiếng sấm quyền năng Ngài?
\s5
\c 27
\p
\v 1 Gióp lại nói,
\v 2 “Thật như Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng đã tước công lý của tôi, Đấng Toàn năng, Ngài đã khiến cuộc đời tôi trở nên cay đắng,
\v 3 vì hễ tôi còn sống chừng nào và hơi thở từ Đức Chúa Trời ở trong lỗ mũi tôi,
\s5
\v 4 chắc chắn môi tôi sẽ không nói điều bất chính, lưỡi tôi cũng sẽ không nói lời giả dối.
\v 5 Chẳng bao giờ tôi cho rằng các ông đúng; cho đến khi tôi chết, tôi sẽ không bao giờ phủ nhận sự liêm chính của tôi.
\s5
\v 6 Tôi nắm chặt sự công bình của tôi và sẽ không rời bỏ nó; các tư tưởng tôi sẽ không quở tôi chừng nào tôi còn sống.
\v 7 Nguyện kẻ thù tôi như người gian ác; ước gì kẻ chống nghịch tôi trở nên như kẻ bất chính.
\s5
\v 8 Vì người vô đạo có hy vọng gì khi bị Đức Chúa Trời cắt đứt, khi hắn bị Ngài cất mạng sống?
\v 9 Liệu Chúa sẽ nghe tiếng kêu la của hắn khi sự khó nhọc ập đến không?
\v 10 Hắn sẽ vui mừng trong Đấng Toàn năng và luôn kêu cầu Đức Chúa Trời không?
\s5
\v 11 Tôi sẽ chỉ dạy các ông về tay của Đức Chúa Trời; tôi sẽ không giấu các tư tưởng của Đấng Toàn năng.
\v 12 Kìa, chính tất cả các ông đã thấy điều này; vậy tại sao các ông nói những lời vô nghĩa này?
\s5
\v 13 là vận mệnh của kẻ gian ác trước mặt Đức Chúa Trời, là di sản của kẻ đàn áp mà Đấng Toàn năng dành cho hắn:
\v 14 Nếu con cái hắn đông đảo, chúng sẽ được dành cho gươm giáo; con cháu hắn sẽ không bao giờ có đủ thức ăn.
\s5
\v 15 Những người sống sót sẽ bị chôn vùi bởi bệnh dịch, các góa phụ của chúng sẽ không than khóc vì chúng.
\v 16 Dù kẻ ác tích lũy bạc như bụi đất, và chất đầy quần áo như đất sét,
\v 17 hắn có thể chất đầy quần áo, nhưng người công bình sẽ mặc, người vô tội sẽ chia bạc với nhau.
\s5
\v 18 Hắn xây nhà như mạng nhện, như túp lều do người canh gác dựng lên.
\v 19 Hắn nằm xuống trên giường giàu sang, nhưng hắn sẽ chẳng luôn được hưởng; hắn mở mắt ra, và mọi thứ đều biến mất.
\s5
\v 20 Sự kinh hãi bắt kịp hắn như nước; bão cuốn hắn đi trong đêm.
\v 21 Gió đông thổi hắn bay mất, hắn biến mất; gió ấy quét sạch hắn khỏi chỗ hắn ở.
\s5
\v 22 Gió thổi xoáy vào hắn không ngớt; hắn cố chạy thoát khỏi sức mạnh của gió.
\v 1 Chắc chắn phải có mỏ bạc, là nơi người ta luyện vàng.
\v 2 Sắt được lấy khỏi đất; đồng tan chảy khỏi đá.
\s5
\v 3 Người ta xua tan bóng tối và dò tìm đá trong sự tối tăm và mờ mịt đến tận cuối hang.
\v 4 Họ đào một cái hầm cách xa nơi dân chúng sinh sống, là nơi không ai đặt chân đến. Họ treo mình cách xa nơi người ta ở; đu đưa qua lại.
\s5
\v 5 sanh ra miếng ăn, dưới lòng đất như bị lửa xáo trộn.
\v 6 Trong đá có ngọc bích, và trong bụi đất có vàng.
\s5
\v 7 Không chim săn mồi nào biết đường đến đó, mắt chim ưng cũng chẳng thấy được.
\v 8 Các mãnh thú không đi theo con đường đó, sư tử hung dữ cũng không đi ngang đó.
\s5
\v 9 Người ta tra tay trên đá lửa; họ lật đổ núi từ tận chân núi.
\v 10 Họ đục đá mở đường hầm; mắt họ thấy mọi vật quý.
\v 11 Họ ngăn dòng suối; họ đem mọi thứ ẩn giấu ra ánh sáng.
\s5
\v 12 Sự khôn ngoan sẽ được tìm ở đâu? Sự hiểu biết ở đâu?
\v 13 Loài người không biết giá trị của nó; nó cũng không được tìm thấy giữa xứ của người sống.
\v 14 Nước sâu dưới lòng đất nói, ‘Nó không có ở trong tôi’; biển cả nói, ‘Nó không có ở với tôi.’
\s5
\v 15 Không thể đổi sự khôn ngoan để lấy vàng; cũng không thể cân bạc để định giá.
\v 16 Sự khôn ngoan không thể được định giá với vàng Ô-phia, với ngọc hồng mã não hay ngọc bích.
\v 17 Vàng và đồ pha lê không thể có giá trị tương đương với sự khôn ngoan; cũng không thể đổi sự khôn ngoan để lấy trang sức bằng vàng ròng.
\s5
\v 18 San hô hay ngọc thạch anh cũng chẳng đáng đề cập đến; thật vậy, sự khôn ngoan có giá trị hơn cả ngọc đỏ.
\v 19 Hoàng ngọc xứ Ê-thi-ô-pi không có giá trị ngang với sự khôn ngoan; sự khôn ngoan cũng không thể nào được định giá bằng vàng ròng.
\s5
\v 20 Vậy sự khôn ngoan đến từ đâu? Sự hiểu biết ở đâu?
\v 21 Sự khôn ngoan bị che khuất khỏi mắt của những loài sống và bị che khỏi mắt của chim trời.
\v 22 Sự hủy diệt và Tử thần nói, ‘Chính tai chúng ta có nghe tin đồn về điều đó.’
\s5
\v 23 Chúa Trời hiểu con đường dẫn đến đó; Ngài biết chỗ đó.
\v 24 Vì Ngài nhìn khắp tận phương trời và thấy mọi thứ dưới trời.
\v 25 Từ xa xưa, Ngài đã ban sức mạnh cho gió và đo lường phân chia nước.
\s5
\v 26 Ngài ra lệnh cho gió và vạch đường cho sấm sét.
\v 27 Ngài thấy sự khôn ngoan và công bố; thật vậy, Ngài lập nên sự khôn ngoan và dò xét nó.
\v 28 Ngài phán với loài người, ‘Kìa, kính sợ Chúa – là khôn ngoan; tránh khỏi điều dữ là thông minh.”
\s5
\c 29
\p
\v 1 Gióp lại trả lời,
\v 2 “Ồ, ước gì tôi ở trong những tháng ngày xa xưa khi Chúa chăm sóc tôi,
\v 3 khi ngọn đèn Ngài soi trên đầu tôi, và khi tôi bước đi trong bóng đêm bằng ánh sáng Ngài.
\s5
\v 4 Ôi, ước gì tôi ở trong những ngày chín muồi khi Đức Chúa Trời là bạn thân thiết che chở lều tôi,
\v 5 khi Đấng Toàn năng còn ở với tôi, và con cái tôi ở quanh tôi,
\v 6 khi đường lối tôi bị sữa cuốn đi, và đá tuôn đổ trên tôi những dòng suối dầu!
\s5
\v 7 Khi tôi ra khỏi cổng thành, khi tôi ngồi ở quảng trường của thành phố,
\v 8 các thanh niên thấy tôi và tránh qua một bên, người già đứng dậy và bênh vực tôi.
\s5
\v 9 Các vương tử từng kìm chế không nói khi tôi đến; họ lấy tay che miệng mình.
\v 10 Người quý tộc im lặng, lưỡi họ dính chặt vào vòm miệng.
\s5
\v 11 Vì sau khi tai họ đã nghe tôi, họ sẽ chúc phước cho tôi; sau khi mắt họ đã thấy tôi, họ sẽ làm chứng cho tôi và chấp thuận tôi
\v 12 vì tôi từng cứu người nghèo khi họ kêu la, và tôi cũng cứu người mồ côi cha, khi họ không có ai để giúp đỡ.
\v 13 Người sắp chết chúc phước cho tôi; tôi khiến cho người góa phụ vui mừng ca hát.
\s5
\v 14 Tôi mặc sự công bình, và nó che phủ tôi; công lý của tôi như chiếc áo choàng và khăn xếp.
\v 15 Tôi là mắt của người mù; tôi là đôi chân của người què.
\v 16 Tôi là cha của người thiếu thốn; tôi thậm chí sẽ xem xét cảnh ngộ của người mà tôi chẳng biết.
\s5
\v 17 Tôi bẻ hàm của kẻ bất chính; tôi lấy nạn nhân ra khỏi răng của nó.
\v 18 Sau đó tôi nói, ‘Tôi sẽ chết trong tổ của mình; tôi sẽ thêm lên các ngày như hạt cát.
\v 19 Rễ của tôi ăn sâu xuống tới nước, sương móc rơi trên các nhánh của ta suốt đêm.
\s5
\v 20 Sự tôn kính trong tôi luôn luôn tươi mới, cây cung sức mạnh trong tay tôi luôn mới.
\v 21 Người ta lắng nghe tôi, họ chờ tôi; họ im lặng nghe lời khuyên của tôi.
\v 22 Sau khi tôi đã nói xong, họ không nói gì nữa; lời nói của tôi như nước rơi trên họ.
\s5
\v 23 Họ luôn chờ đợi tôi như người ta trông chờ mưa; họ há miệng uống lời tôi, như người ta há miệng hứng nước mưa.
\v 24 Tôi mỉm cười khi họ không kỳ vọng; họ không từ chối ánh sáng của mặt tôi.
\s5
\v 25 Tôi chọn đường lối cho họ và chỉ huy họ; tôi sống như vua giữa quân đội, như người an ủi người than khóc ở đám tang.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Bấy giờ những người trẻ hơn tôi chẳng có gì ngoại trừ lời nhạo báng tôi – những người trẻ mà cha của họ là người mà tôi hẳn sẽ từ chối không cho làm việc bên cạnh đàn chó chăn bầy của tôi.
\v 2 Thật vậy, sức mạnh của tay cha họ, làm sao có thể giúp đỡ tôi – những người mà sức lực trong tuổi trưởng thành đã tàn lụi?
\v 3 Họ gầy còm vì nghèo đói; họ gặm nhắm trên đất khô trong bóng của hoang mạc và cảnh tan hoang.
\s5
\v 4 Họ nhổ cỏ lông lợn và lá của bụi cây; rễ của cây đậu chổi là thức ăn của họ.
\v 5 Họ bị đuổi khỏi những người la hét họ như thể la hét đuổi một tên trộm.
\v 6 Vì vậy họ phải sống trong các khe sông, trong các hang dưới đất và hang đá.
\s5
\v 7 Họ kêu inh tai giữa các bụi cây như con lừa; họ tập trung lại dưới bụi cây.
\v 8 Thật vậy, họ là con cháu của kẻ ngốc, của người vô dụng; họ bị đuổi ra khỏi xứ bằng roi.
\s5
\v 9 Nhưng bây giờ, vì con của họ, tôi trở thành đối tượng trong bài hát chế giễu của họ; thật vậy, tôi trở thành trò cười của họ.
\v 10 Họ ghét cay ghét đắng tôi và đứng tránh xa tôi; họ không ngại nhổ vào mặt tôi.
\v 11 Vì Chúa đã tháo dây cung của tôi và khiến tôi đau đớn, và do đó những người này không tự chủ trước mặt tôi.
\s5
\v 12 Bên phải tôi, một đám đông nổi lên; họ xua đuổi tôi và đắp lũy bao vây tôi.
\v 13 Họ hủy phá đường lối tôi; họ đẩy tai họa đến với tôi, họ không có ai để kiềm chế họ.
\s5
\v 14 Họ xông đến tôi như một đoàn quân tràn vào lỗ hổng lớn của tường thành; khi tận diệt, họ xâm chiếm tôi.
\v 15 Nỗi kinh hãi giáng trên tôi; danh dự tôi bị gió cuốn bay xa; sự thịnh vượng của tôi như mây tan biến.
\s5
\v 16 Bấy giờ mạng sống tôi đổ ra từ trong tôi; nhiều ngày đau khổ bám lấy tôi.
\v 17 Ban đêm, xương tôi bị đâm; những cơn đau không ngừng gặm nhắm tôi.
\s5
\v 18 Sức mạnh lớn lao của Chúa nắm lấy quần áo tôi; nó túm lấy tôi như cổ áo.
\v 19 Ngài đã ném tôi vào vũng bùn; tôi trở nên như tro bụi.
\s5
\v 20 Chúa Trời ơi, con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không trả lời con; con đứng dậy, Ngài chỉ nhìn con.
\v 21 Ngài đã thay đổi và trở nên tàn nhẫn với con; Ngài hành hạ con bằng quyền năng trong tay Ngài.
\s5
\v 22 Ngài nâng con lên cơn gió và khiến nó chở con đi khắp nơi; Ngài khiến con tan biến trong bão.
\v 23 Vì con biết rằng Ngài sẽ khiến con chết, là nơi gặp mặt của mọi người sống.
\s5
\v 24 Tuy nhiên, chẳng phải người ta giơ tay ra để xin được giúp đỡ khi vấp ngã sao? Chẳng có ai gặp khó khăn mà không kêu xin giúp đỡ sao?
\v 25 Chẳng phải tôi không than khóc cho người gặp phiền muộn sao? Chẳng phải tôi không đau buồn vì người nghèo túng sao?
\v 26 Khi tôi tìm điều lành thì điều dữ đến; khi tôi trông đợi ánh sáng thì bóng tối đến.
\s5
\v 27 Lòng tôi phiền muộn và không an nghỉ; những ngày tai họa đến trên tôi.
\v 28 Tôi đi tới đi lui với làn da nám đen chẳng phải vì mặt trời; tôi đứng lên giữa hội chúng và kêu cầu giúp đỡ.
\v 29 Tôi là anh em của chó rừng, là bạn của đà điểu.
\s5
\v 30 Da tôi đen và rớt khỏi tôi; xương cốt tôi bị thiêu vì sức nóng.
\v 31 Vì vậy, đàn hạc tôi được lên dây để khảy những bài tang chế, sáo tôi thổi tiếng rên rỉ.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Tôi đã lập giao ước với mắt tôi; vậy thì làm sao tôi thèm muốn nhìn gái đồng trinh?
\v 2 Chúa trên trời cao ban phần gì, gia sản từ Đấng Toàn năng trên cao là gì?
\s5
\v 3 Tôi từng nghĩ rằng tai họa là dành cho người bất chính, và thảm họa là dành cho người làm điều ác.
\v 4 Đức Chúa Trời không thấy đường lối tôi và đếm bước chân tôi sao?
\s5
\v 5 Nếu tôi đi với phường gian dối, nếu chân tôi vội vàng chạy đến mưu gian,
\v 6 (nguyện tôi được đặt trên cái cân chính xác để Chúa biết sự liêm chính của tôi)
\s5
\v 7 nếu tôi đã bước chân ra khỏi con đường chính đáng, nếu lòng tôi theo sau mắt tôi, nếu tay tôi dính bất kỳ chất bẩn nào,
\v 8 thì nguyện kẻ khác sẽ ăn những gì tôi gieo; thật vậy, nguyện mùa gặt bị nhổ khỏi ruộng tôi.
\s5
\v 9 Nếu lòng tôi tham muốn một người nữ khác, nếu tôi nằm chờ vợ hàng xóm tôi ở cửa của người,
\v 10 thì nguyện vợ tôi sẽ xay thóc cho người khác, và để người khác ngủ với nàng.
\s5
\v 11 Vì đó sẽ là một tội ác khủng khiếp; thật vậy, các quan tòa sẽ trừng trị tội ác đó.
\v 12 Vì đó là ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ thuộc âm phủ và đốt cháy mùa gặt của tôi.
\s5
\v 13 Nếu tôi phớt lờ lời cầu xin công lý của tôi trai tớ gái tôi khi họ đến tranh luận cùng tôi,
\v 14 tôi sẽ làm gì khi Chúa trỗi dậy kết tội tôi? Khi Ngài đến đoán xét tôi, tôi sẽ trả lời Ngài thế nào?
\v 15 Phải chăng Đấng đã dựng nên tôi trong lòng mẹ cũng không dựng nên họ sao? Chẳng phải Đấng đó đã nắn nên tất cả chúng ta trong lòng mẹ?
\s5
\v 16 Nếu tôi từ chối không đáp ứng mong ước của người nghèo, hoặc nếu tôi để cho mắt của góa phụ hao mòn vì khóc,
\v 17 hoặc nếu tôi ăn riêng phần của mình và không cho người mồ côi cha ăn –
\v 18 trái lại, từ lúc cô nhi của tôi lớn lên, tôi nuôi họ như một người cha, tôi hướng dẫn mẹ của họ, là một góa phụ, từ lòng mẹ của tôi
\s5
\v 19 nếu tôi thấy ai bỏ mạng vì không có quần áo, hoặc nếu tôi thấy người thiếu thốn không có quần áo;
\v 20 nếu lòng của người không chúc phước cho tôi vì người không nhờ lông chiên của tôi mà được ấm,
\v 21 nếu tôi giơ tay lên nghịch lại người mồ côi cha, vì tôi thấy mình được hỗ trợ tại cửa thành
\s5
\v 22 nguyện vai tôi lìa khỏi xương vai, và cánh tay tôi lìa khỏi khớp.
\v 23 Vì tai ương từ Chúa sẽ là nỗi kinh hãi với tôi; vì cớ sự oai nghi Ngài, tôi không thể làm được điều gì trong số này.
\s5
\v 24 Nếu tôi xem vàng là niềm hy vọng của tôi, và nếu tôi nói với vàng ròng, ‘Ngươi là thứ mà ta tin tưởng’;
\v 25 nếu tôi vui mừng vì tôi giàu có, vì tay tôi nắm nhiều của cải;
\s5
\v 26 nếu tôi thấy mặt trời chiếu sáng, hoặc mặt trăng nhô lên rạng ngời;
\v 27 và nếu lòng tôi thầm bị thu hút, đến nỗi miệng tôi hôn tay tôi một cách sùng bái –
\v 28 thì đây là tội đáng bị quan tòa xét xử, vì tôi dám từ chối Chúa trên trời cao.
\s5
\v 29 Nếu tôi vui mừng khi kẻ ghét tôi bị diệt hoặc hăm hở khi họ tai họa -
\v 30 thật vậy, tôi không cho phép miệng tôi phạm tội bằng cách hại mạng sống người khác bằng lời rủa sả
\v 1 Vậy cả ba người này thôi trả lời Gióp vì ông tự thấy mình là công bình.
\v 2 Sau đó, Ê-li-hu con Ba-ra-chên, người Bu-xi, dòng họ Ram, nổi giận; ông nổi giận Gióp vì Gióp tự cho mình là đúng hơn Đức Chúa Trời.
\s5
\v 3 Ê-li-hu cũng nổi giận ba bạn của mình vì họ không tìm được câu trả lời nào để đáp lại Gióp, họ chỉ buộc tội Gióp.
\v 4 Bấy giờ, Ê-li-hu đã chờ để nói với Gióp vì những người kia lớn tuổi hơn ông.
\v 5 Tuy nhiên, khi Ê-li-hu thấy không ai trong số ba người này trả lời, ông nổi giận.
\s5
\v 6 Vậy, Ê-li-hu con Ba-ra-chên, người Bu-xi, nói rằng, “Tôi còn trẻ, còn các anh thì già rồi. Đó là lý do tôi ngại và không dám nói cho các anh nghe quan điểm của tôi.
\v 7 Tôi nói, “Người cao tuổi nên nói; các bậc cao niên nên dạy sự khôn ngoan.
\s5
\v 8 Nhưng có thần linh trong loài người; hơi thở của Đấng Toàn năng cho người có sự hiểu biết.
\v 9 Chẳng phải người cao trọng là khôn ngoan, hay người cao niên là người hiểu công lý.
\v 10 Vậy tôi nói với các anh, ‘Hãy nghe tôi; tôi cũng sẽ nói cho các anh biết về kiến thức của tôi.’
\s5
\v 11 Kìa, tôi đã chờ các anh nói; tôi nghe những lời tranh luận của các anh khi các anh suy nghĩ về điều phải nói.
\v 12 Thật vậy, tôi tập trung nghe các anh, nhưng, kìa, không ai trong số các anh có thể thuyết phục Gióp hoặc trả lời ông ấy.
\v 33 Các ông có nghĩ rằng Chúa sẽ trừng phạt tội lỗi của người đó, vì các ông không thích điều Ngài làm? Các ông phải chọn, chứ không phải tôi. Vậy hãy nói điều các ông biết.
\s5
\v 34 Những người hiểu biết sẽ nói với tôi – thật vậy, người khôn ngoan lắng nghe tôi sẽ nói,
\v 35 ‘Gióp nói mà chẳng biết gì; lời nói của ông ấy thật thiếu khôn ngoan.’
\s5
\v 36 Giá mà Gióp bị thử thách đến cùng vì lời nói của ông ấy như người gian ác.
\v 37 Vì ông ấy thêm sự chống đối vào tội lỗi mình; ông ấy vỗ tay nhạo báng giữa chúng ta; ông ấy nói những lời nghịch cùng Đức Chúa Trời.”
\s5
\c 35
\p
\v 1 Hơn nữa, Ê-li-hu nói tiếp,
\v 2 “Ông nghĩ ông vô tội sao? Ông nghĩ rằng, ‘Tôi công bình hơn Đức Chúa Trời’ sao?
\v 3 Vì ông nói, ‘Tôi được ích lợi gì khi tôi công bình? Tôi được ích lợi gì nếu tôi chẳng phạm tội?’
\s5
\v 4 Tôi sẽ trả lời ông, cả ông và các bạn của ông.
\v 5 Hãy nhìn lên trời, và nhìn xem nó; hãy xem bầu trời, nó vốn cao hơn ông.
\s5
\v 6 Nếu ông phạm tội, thì việc ấy làm hại chi cho Đức Chúa Trời? Nếu sự vi phạm của ông chất thành đống, thì ông làm gì được Ngài?
\v 7 Nếu ông công bình, ông có thể cho Ngài điều gì? Ngài sẽ nhận gì từ tay ông?
\v 8 Sự gian ác của ông có thể làm tổn thương con người, vì ông là con người, và sự công bình của ông có thể đem đến ích lợi cho người khác.
\s5
\v 9 Vì cớ những sự áp bức, dân chúng kêu la; họ kêu cầu người quyền thế giúp đỡ.
\v 10 Nhưng không ai nói, ‘Đức Chúa Trời, Đấng Tạo hóa của tôi, Đấng ban những bài hát trong đêm,
\v 11 Đấng dạy dỗ chúng tôi nhiều hơn các loài thú trên đất, và Đấng khiến chúng tôi khôn ngoan hơn các loài chim trời đâu rồi?’
\s5
\v 12 Họ kêu la, nhưng Đức Chúa Trời không trả lời vì cớ sự kiêu ngạo của người gian ác.
\v 13 Chúa chắc chắn sẽ không nghe tiếng kêu la của kẻ dại dột; Đấng Toàn năng sẽ không đoái đến.
\v 14 Ngài sẽ càng ít trả lời ông nếu ông nói rằng ông không thấy Ngài, rằng duyên cớ của ông ở trước mặt Ngài, và rằng ông đang đợi Ngài!
\s5
\v 15 Ngài sẽ càng ít trả lời ông nếu ông nói rằng Ngài không bao giờ giận dữ phạt bất cứ ai, và rằng Ngài không ngó ngàng gì đến sự kiêu ngạo của loài người.
\v 16 Vậy Gióp mở miệng mình chỉ để nói lời dại dột; ông ấy nói những lời thiếu hiểu biết.
\s5
\c 36
\p
\v 1 Ê-li-hu nói tiếp,
\v 2 “Cho phép tôi nói thêm một chút, rồi tôi sẽ cho ông biết đôi điều vì tôi còn những lời muốn nói biện hộ thêm cho Đức Chúa Trời.
\v 3 Tôi sẽ đạt được kiến thức từ nơi xa; tôi sẽ biết rằng sự công bình của tôi thuộc về Đấng Tạo hóa.
\s5
\v 4 Vì thật sự, lời nói của tôi sẽ không sai; một người trưởng thành trong sự hiểu biết đang ở bên ông.
\v 5 Kìa, Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng và không khinh dể ai; Ngài có quyền năng trong sức mạnh của sự hiểu biết.
\s5
\v 6 Ngài không bảo vệ mạng sống của kẻ ác nhưng trái lại, Ngài làm điều đúng đắn cho người đau khổ.
\v 7 Ngài không dời mắt khỏi người công bình nhưng Ngài đặt họ ngồi trên ngai như vua đời đời, và họ được nhấc lên.
\s5
\v 8 Tuy nhiên, nếu họ bị xiềng xích, và bị trói buộc trong dây đau khổ,
\v 9 rồi Ngài tỏ cho họ biết việc họ làm – tức là những sự vi phạm của họ và thể nào họ đã cư xử ngạo mạn.
\s5
\v 10 Ngài cũng mở tai họ để họ nghe lời hướng dẫn của Ngài, và Ngài ra lệnh cho họ từ bỏ tội lỗi.
\v 11 Nếu họ nghe Ngài và thờ phượng Ngài, họ sẽ sống những ngày thịnh vượng, có những năm an lạc.
\v 12 Tuy nhiên, nếu họ không nghe, họ sẽ bị gươm giết chết; họ sẽ chết vì thiếu hiểu biết.
\s5
\v 13 Những kẻ vô đạo trong lòng ấp ủ cơn giận; họ không kêu cầu xin được giúp đỡ ngay cả khi Chúa trói họ.
\v 14 Họ chết khi còn trẻ; cuộc đời họ chấm dứt giữa bọn mại dâm ở đền miếu.
\s5
\v 15 Đức Chúa Trời giải cứu người khốn cùng bằng sự hoạn nạn của họ; Ngài mở tai họ bằng sự áp bức của họ.
\v 16 Thật vậy, Ngài muốn kéo ông ra khỏi tai họa bước vào một nơi rộng rãi, là nơi chẳng có gian khó và bàn của ông sẽ đầy cao lương mỹ vị.
\s5
\v 17 Nhưng ông đầy dẫy sự đoán xét kẻ ác; sự đoán xét và công lý đã bắt lấy ông.
\v 18 Chớ để sự giàu sang quyến rũ ông đến sự lừa dối; chớ để của hối lộ lớn khiến ông làm sai công lý.
\s5
\v 19 Của cải ông có thể đem lại ích lợi cho ông không, để ông không gặp tai họa, hoặc quyền lực của ông có thể giúp ông không?
\v 20 Đừng ao ước ban đêm để phạm tội đối với người khác, khi họ bị cô lập trong nhà mình.
\v 21 Hãy cẩn thận chớ chú vào tội lỗi vì ông đang được thử thách qua hoạn nạn để ông tránh xa khỏi tội lỗi.
\s5
\v 22 Kìa, Đức Chúa Trời được tôn cao trong quyền năng Ngài; ai là thầy giáo như Ngài?
\v 23 Ai từng dạy Ngài về đường lối Ngài? Ai có thể nói với Ngài, ‘Ngài đã phạm điều bất chính’?
\v 24 Hãy nhớ ngợi khen các việc của Ngài, mà loài người đã ca ngợi.
\s5
\v 25 Tất cả mọi người đều đã nhìn xem những việc ấy, nhưng họ chỉ nhìn thấy từ đàng xa.
\v 26 Kìa, Đức Chúa Trời thật lớn lao, nhưng chúng ta không hiểu rõ Ngài; số năm của Ngài thật chẳng đếm được.
\s5
\v 27 Vì Ngài hút các giọt nước lên thành hơi nước làm mưa,
\v 28 các đám mây đổ mưa xuống và rơi tầm tã trên loài người.
\v 29 Thật vậy, có ai hiểu sự giăng bủa của mây và tiếng sấm từ lều Ngài?
\s5
\v 30 Kìa, Ngài bủa sấm chớp quanh Ngài; Ngài bao phủ biển cả bằng sự tối tăm.
\v 31 Như vậy Ngài nuôi các dân và ban thức ăn dư dật.
\s5
\v 32 Ngài giấu sấm sét trong tay Ngài cho đến khi Ngài ra lệnh chúng đánh vào mục tiêu.
\v 33 Mũi của chúng cho người ta biết cơn bão sắp đến; gia súc cũng biết bão tố sẽ đến.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Thật vậy, lòng tôi run sợ vì sự này; nó bị dời ra khỏi chỗ nó.
\v 2 Hãy nghe, ôi, hãy nghe tiếng huyên náo của tiếng nói Ngài, là tiếng phát ra từ miệng Ngài.
\v 3 Ngài phát ra tiếng vang dội dưới cả bầu trời, và Ngài phát ra chớp nhoáng đến tận các bờ cõi của trái đất.
\s5
\v 4 Sau đó có một tiếng gầm; Ngài nổi sấm bằng tiếng oai nghi của Ngài; Ngài không giữ lại tia chớp khi người ta nghe tiếng Ngài.
\v 5 Đức Chúa Trời nổi sấm một cách kỳ diệu bằng tiếng của Ngài; Ngài làm những việc mà chúng ta không thể hiểu thấu.
\v 6 Vì Ngài bảo tuyết, ‘Hãy rơi xuống đất’; Ngài cũng phán như vậy với mưa, ‘Mưa hãy rơi thật tầm tã’.
\s5
\v 7 Ngài ngưng tay loài người khỏi công việc, để tất cả những người được Ngài dựng nên đều thấy việc Ngài làm.
\v 8 Muông thú ẩn náu và ở trong hang.
\v 9 Bão tố kéo đến từ nơi phương nam và giá buốt kéo đến từ gió ở phương bắc.
\s5
\v 10 Bởi hơi thở của Đức Chúa Trời thì có băng giá; sông nước mênh mông đóng băng như kim loại.
\v 11 Thật vậy, Ngài khiến mây trở nên nặng vì hơi ẩm; Ngài tỏa chớp nhoáng qua mây.
\s5
\v 12 Ngài cuốn mây vòng vòng theo chỉ đạo của Ngài, để chúng làm bất cứ điều gì Ngài sai khiến trên khắp mặt đất.
\v 13 Ngài khiến việc này xảy ra; khi thì để sửa phạt, khi thì tưới nhuần đất của Ngài, và khi thì tỏ ra sự thành tín theo giao ước.
\s5
\v 14 Gióp, hãy nghe đây; hãy dừng lại và nghĩ đến những việc lạ lùng của Đức Chúa Trời.
\v 15 Ông có biết Chúa sắp đặt ý Ngài trên các đám mây và khiến chớp nhoáng lóe ra trong chúng như thế nào không?
\s5
\v 16 Ông có hiểu mây trôi ra sao, những việc phi thường của Đức Chúa Trời, là Đấng có tri thức trọn vẹn không?
\v 17 Ông có hiểu làm sao mà quần áo ông nóng khi đất tĩnh mịch vì gió nam không?
\s5
\v 18 Ông có thể giương bầu trời ra như Ngài làm – như một tấm gương cứng cáp đúc bằng kim loại không?
\v 19 Hãy dạy chúng tôi điều chúng tôi nên nói với Ngài, vì chúng tôi không thể sắp đặt ý tranh luận vì tâm trí chúng tôi u mê.
\v 20 Lẽ nào nên nói với Ngài rằng tôi muốn thưa chuyện cùng Ngài? Có ai ước muốn bị nuốt chửng không?
\s5
\v 21 Bây giờ, không ai có thể nhìn mặt trời khi nó tỏa sáng trên bầu trời sau khi gió thổi thoảng qua và làm tan mây trên trời.
\v 22 Ánh chói lọi vàng tỏa ra từ phương bắc – nơi Đức Chúa Trời có vẻ uy nghi đáng sợ.
\s5
\v 23 Về Đấng Toàn năng, chúng ta không thể tìm được Ngài; Ngài có quyền năng lớn lao và công bình. Ngài không áp bức loài người.
\v 24 Vậy, loài người sợ Ngài. Ngài không ngó ngàng gì đến những kẻ khôn ngoan theo tâm trí mình.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Khi ấy, Đức Giê-hô-va từ trong cơn bão cuồng phong gọi Gióp và phán,
\v 2 “Ngươi là ai mà làm cho các kế hoạch của Ta trở nên mơ hồ bằng những lời thiếu tri thức?
\v 3 Bây giờ hãy thắt lưng ngươi như một nam nhi, vì Ta sẽ hỏi ngươi, và ngươi phải trả lời Ta.
\s5
\v 4 Ngươi đã ở đâu khi Ta lập các nền móng của trái đất? Hãy nói đi, nếu ngươi biết.
\v 5 Ai đã định kích thước cho nó? Hãy nói đi, nếu ngươi biết. Ai đã giăng dây đo trên đất?
\s5
\v 6 Nền móng địa cầu được đặt trên gì? Ai đặt hòn đá góc của nó
\v 7 khi các sao mai cùng hát và các con trai của Đức Chúa Trời reo mừng?
\s5
\v 8 Ai đóng cửa ngăn biển cả khi nó tuôn trào, như thể tuôn ra từ lòng đất –
\v 9 khi Ta làm y phục cho mây, và bọc cho bóng tối mù mịt?
\s5
\v 10 Đó là khi Ta định ranh giới cho biển cả, khi Ta đặt các then và cửa,
\v 11 và khi Ta bảo nó, ‘Ngươi có thể đến đây, nhưng không đi xa hơn; đây là nơi Ta sẽ đặt giới hạn cho những con sóng kiêu căng của ngươi.’
\s5
\v 12 Kể từ khi ngươi sinh ra, có bao giờ ngươi ra lệnh cho buổi sáng xuất hiện, và khiến bình minh biết chỗ của nó theo nguyên tắc của sự vật,
\v 13 để nó phủ khắp bốn bề trái đất, đến nỗi kẻ ác bị giũ sạch khỏi đất không?
\s5
\v 14 Trái đất thay đổi hình dạng như đất sét thay đổi dưới cái ấn; vạn vật hiện ra rõ ràng như lằn xếp trên quần áo.
\v 15 ‘Ánh sáng’ của kẻ ác bị tước khỏi chúng; tay giơ cao của chúng bị bẻ gãy.
\s5
\v 16 Ngươi đã đến các nguồn đại dương chưa? Ngươi đã đi trong những nơi sâu thẳm nhất chưa?
\v 17 Ngươi đã thấy các cổng sự chết chưa? Ngươi có thấy các cổng của bóng sự chết chưa?
\v 18 Ngươi có hiểu sự mênh mông của địa cầu không? Hãy nói đi, nếu ngươi biết tất cả.
\s5
\v 19 Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là ở đâu – nơi ở của bóng tối đâu?
\v 20 Ngươi có thể dẫn ánh sáng và bóng tối đến nơi hoạt động của chúng không? Ngươi có thể tìm đường về nhà cho chúng không?
\v 21 Rõ ràng là ngươi biết, vì khi đó ngươi đã được sinh ra rồi; số các ngày của ngươi thật nhiều thay!
\s5
\v 22 Ngươi có bao giờ bước vào các kho trữ tuyết chưa, hoặc có bao giờ ngươi thấy các kho trữ mưa đá chưa,
\v 23 là những thứ mà Ta đã để dành trong những kỳ hoạn nạn, cho những ngày chiến tranh và giặc giã?
\v 24 Chớp nhoáng tỏa ra từ hướng nào hoặc gió đông được thổi lan ra đến đâu trên khắp đất?
\s5
\v 25 Ai đã làm nên các kênh dẫn nước mưa, hoặc ai đã vạch đường cho sấm chớp,
\v 26 hoặc khiến mưa rơi trên những nơi không có người ở, và trên hoang mạc, là nơi hoang vu,
\v 27 để đáp ứng nhu cầu của những vùng khô cằn và hiu quạnh, khiến cỏ mọc um tùm?
\s5
\v 28 Mưa có cha không? Ai đã sanh ra các giọt sương?
\v 29 Băng đá ra từ lòng ai? Ai sanh ra sương giá từ trời?
\v 30 Nước ẩn giấu và đông lại như đá; mặt vực sâu đóng băng.
\s5
\v 31 Ngươi có thể buộc dây trói chòm sao Thất tinh không, hoặc cởi trói cho sao Thiên lang không?
\v 32 Ngươi có thể hướng dẫn các chòm sao mọc vào đúng thời điểm của chúng không? Ngươi có thể hướng dẫn sao Bắc đẩu và con cái của chúng không?
\v 33 Ngươi có biết các quy định của bầu trời không? Ngươi có thể lập quy định của bầu trời trên đất không?
\s5
\v 34 Ngươi có thể cất tiếng ra lệnh cho mây, để mưa rơi tầm tã trên ngươi không?
\v 35 Ngươi có thể truyền cho sấm chớp phát ra không, để chúng nói với ngươi, ‘Có chúng tôi đây’?
\s5
\v 36 Ai đã ban sự khôn ngoan cho mây hoặc sự thông hiểu cho sương móc?
\v 37 Ai có tài đếm mây? Ai có thể đổ các bầu nước trên trời
\v 38 khi bụi đất kết dính và những cục đất dính chặt với nhau?
\s5
\v 39 Ngươi có thể săn mồi cho sư tử cái hoặc khiến sư tử con no nê thỏa dạ
\v 40 khi chúng co mình trong hang và nằm rình mồi không?
\s5
\v 41 Ai ban mồi cho quạ khi quạ con kêu la lên Đức Chúa Trời và đi loạng choạng vì thiếu thức ăn?
\s5
\c 39
\p
\v 1 Ngươi biết khi nào sơn dương sinh nở? Ngươi có thể quan sát lúc nai cái sinh con không?
\v 2 Ngươi có thể đếm số tháng chúng mang thai không? Ngươi biết gấu sinh con khi nào không?
\s5
\v 3 Chúng khom mình xuống và sinh con nhỏ, sau đó chúng hết cơn đau đẻ.
\v 4 Các con nhỏ của chúng lớn lên mạnh mẽ ỡ những cánh đồng hoang dã; chúng ra ngoài và chẳng trở về.
\s5
\v 5 Ai để lừa hoang tự do chạy nhảy? Ai tháo dây buộc con lừa nhanh nhẹ,
\v 6 Ta ban cho nó có nhà ở A-ra-ba, nhà của nó ở nơi đất mặn?
\s5
\v 7 Nó cười nhạo tiếng ồn nơi thành phố; nó không nghe tiếng quát tháo của người đánh xe.
\v 8 Nó lang thang khắp các dãy núi là đồng cỏ của nó; tại đó nó tìm cỏ cây xanh tươi để ăn.
\s5
\v 9 Liệu con bò rừng sẽ vui vẻ phục vụ ngươi không? Nó sẽ đồng ý ở trong máng của ngươi chứ?
\v 10 Với sợi dây, ngươi có thể điều khiển con bò rừng để nó cày trên các luống cày không? Nó sẽ bừa các thung lũng cho ngươi không?
\s5
\v 11 Ngươi sẽ tin nó vì sức mạnh to lớn của nó không? Ngươi sẽ để nó làm công việc của ngươi chứ?
\v 12 Ngươi sẽ phụ thuộc vào nó để đem lúa về nhà, gom lúa vào sân đạp lúa của ngươi chứ?
\s5
\v 13 Đôi cánh đà điểu vỗ đầy tự hào, nhưng có phải chúng là đầu cánh và bộ lông đầy yêu thương không?
\v 14 Vì nó đẻ trứng dưới đất, và nó để trứng được ấp dưới đất;
\v 15 nó quên rằng chân có thể giẫm lên chúng hoặc một con thú nào đó có thể đạp lên chúng.
\s5
\v 16 Nó cư xử thô bạo với con của nó như thể chúng chẳng phải là con nó; nó không sợ rằng việc sinh nở của nó có thể trở nên vô ích,
\v 17 vì Đức Chúa Trời đã cất sự khôn ngoan khỏi nó và không cho nó có sự hiểu biết nào cả.
\v 18 Khi nó nhanh nhảu chạy nhảy, nó cười nhạo loài ngựa và kỵ mã.
\s5
\v 19 Ngươi có ban sức mạnh cho ngựa không? Ngươi có đặt cái bờm trên cổ nó không?
\v 20 Ngươi có bao giờ khiến nó nhảy như con châu chấu không? Vẻ oai vệ của tiếng hí nó thật đáng sợ.
\s5
\v 21 Nó mạnh mẽ giậm chân và hí hửng trong sức mạnh của nó; nó xông ra đương đầu các loại vũ khí.
\v 22 Nó chế nhạo sự sợ hãi và không khiếp đảm; nó không bỏ chạy trước lưỡi gươm.
\v 23 Bao tên kêu lách cách bên hông nó, cùng với giáo và lao lóng lánh.
\s5
\v 24 Nó giận dữ giẫm vó lên đất; khi kèn vang tiếng, nó không thể đứng yên một chỗ.
\v 3 Ngài hỏi con, ‘Kẻ thiếu tri thức này là ai mà dám làm lu mờ kế hoạch của Ta?’ Vậy, con đã nói những điều mà con không hiểu, những điều vượt tầm hiểu biết của con, là những điều con không biết.
\v 5 Tai con đã nghe Ngài, nhưng giờ đây mắt con thấy Ngài.
\v 6 Vì vậy, con ghê tởm chính mình; con ăn năn trong bụi đất và tro.”
\s5
\v 7 Sau khi Đức Giê-hô-va đã phán những lời này với Gióp, Ngài phán với Ê-li-pha người Tê-man, “Cơn thạnh nộ của Ta bùng cháy nghịch với ngươi và hai bạn ngươi vì các ngươi chẳng nói đúng về Ta như tôi tớ Ta là Gióp đã nói.
\v 8 Vậy bây giờ, các ngươi hãy lấy bảy con bò đực và bảy con chiên đực, đi đến tôi tớ Ta là Gióp, và dâng làm của lễ thiêu vì chính các ngươi. Gióp, tôi tớ Ta, sẽ cầu nguyện cho các ngươi, và Ta sẽ nhậm lời cầu nguyện của người, hầu cho Ta không phạt các ngươi vì lời nói dại dột của các ngươi. Các ngươi không nói đúng sự thật về Ta, như Gióp, tôi tớ Ta đã nói.”
\v 9 Vậy Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Sô-pha người Na-a-ma đi và làm y như Đức Giê-hô-va đã tryền, và Đức Giê-hô-va đoái đến Gióp.
\s5
\v 10 Khi Gióp cầu thay cho các bạn mình, Đức Giê-hô-va phục hồi lại sự thịnh vượng của ông. Đức Giê-hô-va ban cho ông nhiều gấp đôi hơn so với trước đó.
\v 11 Khi ấy, tất cả anh chị em của Gióp, những người từng quen biết với ông trước đây – họ đến thăm và cùng ăn tại nhà ông. Họ chia buồn và an ủi ông về mọi tai họa mà Đức Giê-hô-va đã giáng trên ông. Mỗi người cho Gióp một miếng bạc và một nhẫn vàng.
\s5
\v 12 Trong những năm cuối đời của Gióp, Đức Giê-hô-va ban phước cho ông nhiều hơn lúc trước; ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò đực, và một ngàn lừa cái.
\v 13 Ông cũng có bảy con trai và ba con gái.
\v 14 Ông đặt tên cho con gái đầu là Giê-mi-ma, con gái thứ nhì là Kê-xi-a, và con gái thứ ba là Kê-ren-ha-búc.
\s5
\v 15 Trong khắp xứ, không có phụ nữ nào xinh đẹp như các con gái của Gióp. Họ được cha chia gia tài cùng với các anh mình.
\v 16 Sau đó, Gióp sống năm; ông được thấy các con trai và cháu chắt mình, đến tận đời thứ tư.